Cố ý hay vô ý giết người

Cố ý hay vô ý giết người

Luật sư quận Tân Bình bào chữa cho bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố trong các vụ án hình sự

Khoảng 22 giờ 20 phút ngày 16/3/2022, sau khi Lê Trúc H cùng Nguyễn

Thanh S (sinh năm 1991), Lê Thiện N (sinh năm 2001), Võ Công N1 (sinh năm

1982), Trần Vĩnh Đ (sinh năm 1971) đến quán C1 thuộc Khu phố B, phường P,

thành phố B, tỉnh Bến Tre để tổ chức uống rượu, bia. Tại đây nhóm của Lê Trúc H

xảy ra mâu thuẫn dẫn đến xô xát với nhóm thanh niên đang nhậu tại quán gồm có

Phạm Nam S1 (sinh năm 1996), Lê Duy P (sinh năm 1999), Nguyễn Văn T3 (sinh

năm 1990), Nguyễn Ngọc T4 (sinh năm 1996), Tăng Cường V (sinh năm 1997) và

Lê Trần Thanh T5 (sinh năm 1997). Được mọi người can ngăn nhóm bạn của Phạm

Nam S1 bỏ ra về; riêng Phạm Nam S1 điều khiển xe mô tô biển số 71C1 – 604.97

đi về hướng bãi rác thuộc xã P, thành phố B được một đoạn thì quay ngược lại quán

C1 để về nhà. Lúc này, Nguyễn Thanh S trong quán đi ra phát hiện nên chỉ tay về

phía Phạm Nam S1 và yêu cầu Lê Trúc H điều khiển xe ô tô biển số 71A – 118.38

chở Nguyễn Thanh S đuổi theo, thấy vậy Phạm Nam S1 quay đầu xe bỏ chạy về3

hướng bãi rác xã P, thành phố B. Khi chạy được một đoạn đến khu vực ấp P, xã P,

thành phố B thì bị xe ô tô biển số 71A – 118.38 do Lê Trúc H điều khiển đuổi kịp

chạy với tốc độ cao đâm thẳng vào xe mô tô biển số 71C1 – 604.97 do Phạm Nam

S1 điều khiển, hậu quả làm Phạm Nam S1 bị thương tích nặng. Ngay sau đó xe ô

tô biển số 71A – 118.38 do Lê Trúc H điều khiển tiếp tục lưu thông về phía trước,

do chưa có giấy phép lái xe theo quy định và đã có uống rượu, bia nên H không làm

chủ tay lái, để xe ô tô rơi xuống mương nước, hậu quả làm Nguyễn Thanh S tử vong

tại hiện trường.

Bà Lê Thị L (mẹ ruột của bị cáo H) đã thay bị cáo thỏa thuận bồi thường xong

cho chị Bùi Thị Bích L1 (đại diện hợp pháp cho bị hại Nguyễn Thanh S) với tổng

số tiền là 135.000.000 đồng.

Bị hại Phạm Nam S1 yêu cầu bồi thường số tiền 405.694.650 đồng, tính đến

ngày 15/3/2023. Bà Lê Thị L đã thay bị cáo H bồi thường cho Phạm Nam S1 được

số tiền 95.000.000 đồng.

Quá trình điều tra Lê Trúc H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp

với các tài liệu chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án. Mặc dù, bị cáo H không thừa

nhận cố ý điều khiển xe ô tô đâm vào xe mô tô do Phạm Nam S1 điều khiển nhằm

xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của bị hại. Tuy nhiên, căn cứ vào tài liệu chứng

cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án, kết quả khám nghiệm hiện trường, kết quả khám

phương tiện, các kết luận giám định có đủ căn cứ xác định Lê Trúc H nhằm mục

đích giải quyết mâu thuẫn giữa nhóm của H và N nên đã chủ động điều khiển xe ô

tô là phương tiện nguy hiểm chạy với tốc độ cao đuổi theo đâm thẳng vào xe mô tô

do N điều khiển nhằm mục đích xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của bị hại N, việc

bị hại N không tử vong là ngoài ý thức chủ quan của H

Tại Bản cáo trạng số: 59/CT-VKSBT-P1 ngày 07/9/2023 của Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Bến Tre truy tố Lê Trúc H về “Tội giết người” theo điểm e, n khoản

1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự và “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ” theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự

Tuyên bố bị cáo Lê Trúc H phạm “Tội giết người” và “Tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ”;

1. Về trách nhiệm hình sự:

– Áp dụng điểm e, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 15; Điều 57; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Trúc H 08 (tám) năm tù về “Tội giết người”;

– Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Trúc H 02 (hai) năm tù về “Tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ”;

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Lê Trúc

H phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 10 (mười) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 19/01/2023

2. Về trách nhiệm dân sự: Các bên đã thỏa thuận giải quyết xong.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp

dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

Trả lại cho bà Lê Thị L:

– 01 (một) xe ô tô biển số 71A – 118.38, màu trắng, nhãn hiệu KIA, số khung:

RNYFK46A6MC237430, số máy: G4FGMH710962;

Tình trạng xe: đầu xe bị hư hỏng nặng, 02 đèn xe phía trước bị bể, kính chắn

gió phía trước, kính hậu bị bể, cốp và kính sau xe bị hư hỏng, hệ thống bánh xe

không chuyển động được, kính cửa trái – phải phía trước bị vỡ, ghế lái bị hư hỏng,

xe ngưng hoạt động, xe bị hư hỏng nặng, không sử dụng được, không xác định được

chất lượng bên trong xe. Biển số xe phía trước, cản xe phía trước bị sứt, rời ra khỏi

vị trí ban đầu; nắp ca bô phía trước bị móp, thụng theo chiều hướng từ ngoài vào

trong; bộ phận giảm nhiệt trước bị biến dạng từ trước về sau; trên vết thụng nắp ca

bô có dính chất bám màu đỏ tạo thành vùng kích thước 15cm x 10cm.

– 01 (một) chứng nhận đăng ký xe ô tô số 003783, tên chủ xe Lê Thị L (biển

số 71A – 118.38).

– 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định số 8361259.

– 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô, số

2100507711, chủ xe Lê Thị L.

(Theo 02 Biên bản giao nhận vật chứng cùng ngày 21/9/2023 giữa Cơ quan

Cảnh sát điều tra-Công an tỉnh B với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre).

4. Về án phí: căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Điều

23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường

vụ Quốc hội:

Bị cáo Lê Trúc H phải nộp: 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ

thẩm.13

5. Về quyền và thời hạn kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp

của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo

Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu

Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm. Nếu vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn

kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được Bản án

hoặc niêm yết Bản án.