Mượn xe bạn rồi đem đi cầm thì bị xử lý hình sự về tội gì?

Luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa bị cáo tại Tòa cấp cao TP.HCM

Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa bị can, bị cáo bị truy tố, khởi tố, xét xử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Vủ L và ông Nguyễn Thanh T quen biết nhau từ năm 2014 khi cả hai đi nghĩa vụ quân sự, sau đó cả hai xuất ngũ. Ngày 10/11/2018, thông qua mạng xã hội Facebook, L nhắn tin kết bạn với T. Sáng ngày 15/11/2018, L nhắn tin rủ T đi uống rượu bia và hẹn gặp nhau tại khu vực thuộc vòng xoay An Lạc thuộc quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, T đồng ý. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, ông T điều khiển xe mô tô Honda Future X, biển số 66N3-4903 đến vòng xoay An Lạc gặp L. Sau đó, cả hai đến quán P, địa chỉ B5/19K Ấp 2, xã T, huyện B uống rượu bia. Một lúc sau, có bạn của T là ông Võ Bé S và người phụ nữ tên Nh (không rõ lai lịch) đến cùng uống rượu bia. Trong lúc uống rượu bia, L thấy ông T có biểu hiện say rượu bia nên L nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của ông T để bán lấy tiền tiêu xài. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, để mượn được xe mô tô của ông T, L giả vờ nói với ông T là L đi rước vợ ở quê mới lên (thực tế L chưa có vợ) và L nói ông T cho L mượn xe mô tô để L đi đón vợ, ông T đồng ý và đưa cho L chìa khóa xe mô tô cùng 01 thẻ giữ xe. Lúc này, L kêu anh T đưa giấy đăng ký xe mô tô để không bị Cảnh sát giao thông bắt khi kiểm tra giấy tờ xe. Do T tin tưởng lời nói của L nên lấy 01 bóp màu đen, bên trong có 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 66N3-4903 mang tên Phan Thị L, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM của ngân hàng ACB và 01 thẻ ATM của ngân hàng TP Bank đều mang tên Nguyễn Thanh T cùng với 110.000 đồng đưa cho L cất giữ. Khi L lấy được chìa khóa xe mô tô, thẻ giữ xe và 01 cái bóp do T đưa, L đi ra bãi giữ xe đưa thẻ giữ xe cho người giữ xe của quán rồi điều khiển xe mô tô của ông T đi về thị xã T, Tỉnh Bình Dương để tìm nơi tiêu thụ xe. Thấy L chưa quay lại quán trả xe nên ông T điện thoại cho L thì L hẹn chút nữa về rồi L tắt điện thoại di động.

Đến khoảng 22 giờ ngày 16/11/2018, L điều khiển xe mô tô biển số 66N3-4903 đến tiệm cầm đồ N, địa chỉ 5/209 đường Thủ Khoa Huân, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương cầm cố cho ông Trịnh Văn N được 10.000.000 đồng, L tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 17/11/2018, L quay lại tiệm cầm đồ N gặp ông N để thỏa thuận bán xe mô tô biển số 66N3-4903 đã cầm trước đó. Lúc này, L đưa giấy đăng ký xe mô tô biển số 66N3-4903 mang tên Phan Thị L và nói dối xe mô tô là của bà L cho, đưa giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thanh T và nói dối L tên là T để ông N đồng ý mua xe. Sau khi nhận các giấy tờ của L đưa, ông N đồng ý mua xe mô tô với giá 12.000.000 đồng và viết giấy tờ mua bán xe ghi tên người bán là Nguyễn Thanh T đưa cho L điểm chỉ vào bên người bán xe. Sau khi làm giấy tờ bán xe xong, ông N đưa 2.000.000 đồng còn lại cho L (đã cấn trừ 10.000.000 đồng L đã nhận cầm cố vào ngày 16/11/2018). Sau đó, ông N đã bán lại xe mô tô trên cho người đàn ông tên Vinh (không rõ nhân thân, lai lịch).

Đến ngày 29/11/2018, ông T đi trên đường Quốc lộ 1A, khi đến giao lộ Bình Điền thuộc xã A, huyện B thì phát hiện L đang đi với bạn nên giữ L lại và đến Công an xã Tân Kiên trình báo sự việc. Vụ việc sau đó được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh điều tra, xử lý.

Nhận định của Tòa án về hành vi phạm tội của Nguyễn Vũ L

Vào khoảng 22 giờ ngày 15/11/2018, tại quán P (địa chỉ B5/19K Ấp 2, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh), bị cáo Nguyễn Vủ L đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối là giả vờ nói đi rước vợ (thực tế L chưa có vợ) để mượn xe mô tô biển số 66N3-4903 của ông Nguyễn Thanh T nhằm mục đích chiếm đoạt xe này. Do tin tưởng bị cáo L nên ông T đã đồng ý giao xe và các giấy tờ xe cho bị cáo L. Sau khi nhận được xe, bị cáo đem xe của ông T đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân hết.

Bằng thủ đoạn gian dối trên, bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại ông Nguyễn Thanh T 01 xe mô tô biển số 66N3-4903. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Bản án hình sự

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Vủ L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Vủ L: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2022.