Luật sư quận Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa cho bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố trong các vụ án hình sự
Vào lúc 22 giờ 55 phút ngày 18/6/2023, trên tuyến sông H thuộc thủy phận
xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre, Tổ công tác Phòng Cảnh sát phòng, chống tội
phạm về môi trường Công an tỉnh B phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn V và
Đặng Thanh T sử dụng ghe gỗ không biển kiểm soát, có lắp hệ thống bơm hút
cát tự chế đang khai thác khoáng sản (cát sông) trái phép tại tọa độ X: 1105872,
Y: 588802, khối lượng cát đã khai thác là 8,352m3.
Quá trình điều tra xác định:
Nguyễn Văn V mua ghe gỗ không biển số, nhưng không sử dụng mà sau đó
bán lại cho cha ruột là ông Nguyễn Thành C. Ít ngày sau, V đến gặp ông C hỏi
thuê lại ghe với giá 3.000.000 đồng/tháng; khi đưa ghe về Vũ lắp hệ thống bơm
hút cát tự chế lên ghe, V thuê Đặng Thanh T theo phụ trên ghe để đi khai thác
cát trái phép. Chiều tối ngày 18/6/2023, V, T lên ghe đi khai thác cát trái phép;
lúc này, trên ghe còn có Phùng Văn N là bạn của V, do N bị say rượu nên nằm
ngủ trên ghe. V chạy ghe từ trong vàm Ba T1 ra sông H neo đậu lại chờ nước
thuận lợi để khai thác cát. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì V gọi T kéo neo lên,
V chạy ghe đến vị trí tọa độ X: 1105872; Y: 588802 rồi kêu T thả neo, V đề máy
hút cát, thả vòi hút xuống sông để hút cát lên ghe, T canh bơm nước cho ghe
không bị vô nước hầm mũi, hầm máy. Hút cát khoảng 15 phút thì bị Công an
đến bắt quả tang. Nở không tham gia hoạt động khai thác cát. Khi Công an vừa
lên ghe thì T nhảy xuống sông bỏ trốn;
Trước đó, Nguyễn Văn V đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh
Bến Tre xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác cát, sỏi lòng sông, hồ,
cửa sông; cát sỏi ở vùng nước nội thuỷ ven biển mà không có giấy phép khai
thác khoáng sản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với số tiền phạt
63.988.640 đồng theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 1985/QĐ-
XPHC ngày 29/8/2022. Nguyễn Văn V đã chấp hành xong quyết định xử phạt
vào ngày 21/9/2022; không khiếu nại, khởi kiện.
Vật chứng thu giữ:
– 01 ghe gỗ, không biển kiểm soát; chiều dài lớn nhất 21,35m; chiều rộng
lớn nhất 5,5m; chiều sâu lớn nhất 3,2m.
– Động cơ dùng để chạy phương tiện, nhãn hiệu CUMMINS 6, số hiệu
11067716, không rõ công suất.
– 02 động cơ dùng để hút cát:
+ Động cơ 1: Nhãn hiệu KOMATSU 4, số hiệu 4D92-1-53778, không rõ
công suất.
+ Động cơ 2: Máy 6, không rõ số hiệu, công suất.
– Hệ thống hút cát từ lòng sông lên phương tiện:
+ Hệ thống hút 1: 01 đầu bơm bằng kim loại, một đầu nối với ống hút cát
từ lòng sông lên bằng nhựa màu đen dài 18,0m, đường kính 0,2m, cuối ống nối
với ống hút bằng sắt dài 1,7m, đường kính 0,2m, nối với tuýp sắt dài 4,0m,
đường kính 0,06m, đầu còn lại nối với ống nhựa màu xanh để đưa cát vào
khoang chứa dài 1,0m, đường kính 0,2m, nối với máy hút (máy 6) thông qua dây
curoa.
+ Hệ thống hút 2: 01 đầu bơm bằng kim loại, một đầu nối với ống hút cát
từ lòng sông lên bằng nhựa màu xanh dài 18,0m, đường kính 0,2m, cuối ống nối
với ống hút bằng sắt dài 1,0m đường kính 0,2m, nối với tuýp sắt dài 2,5m,
đường kính 0,06m, đầu còn lại nối với ống nhựa màu trắng để đưa cát vào
khoang chứa dài 1,0m, đường kính 0,2m, nối với máy hút (máy KOMATSU 4)
thông qua dây curoa.
– Hệ thống hút cát từ khoang chứa lên bờ: 01 đầu bơm bằng kim loại, một
đầu nối với ống hút cát trong khoang bằng nhựa màu trắng dài 4,0m, đường kính
0,14m, một đầu nối với ống cát lên bờ bằng bố màu đen dài 3,0m, đường kính4
0,14m, tiếp tục nối với ống nhựa màu xanh dài 4,0m, nối với máy hút thông qua
dây curoa.
– Hệ thống bơm nước: 01 đầu bơm bằng kim loại, một đầu nối với ống
nhựa màu xanh dài 4,0m, đường kính 0,10m, đầu còn lại nối với ống nhựa màu
vàng, dài 8,0m, đường kính 0,06m, nối với máy hút thông qua dây curoa.
– 01 tời để kéo neo.
– Cát sông, khối lượng 8,352m3 (trừ 20 kg).
– 01 mẫu cát sông chứa trong túi nilon, được dán niêm phong đóng dấu của
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B, ký hiệu KS-22/55/18/6/23 (mẫu cát còn lại
sau khi giám định).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như
sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra – Côngan tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa; bị cáo,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến hoặc
khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lờikhai trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng được thu giữ, kết luận giám
định, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập, có
cơ sở xác định: Mặc dù không được cấp phép khai thác khoáng sản và đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác khoáng sản (cát sông), chưa hết
thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Nhưng vào lúc 22
giờ 55 phút ngày 18/6/2023, bị cáo Nguyễn Văn V tiếp tục sử dụng phương tiện
ghe gỗ không biển kiểm soát đến khu vực tuyến sông H có tọa độ: X: 1105872;
Y: 588802 (theo hệ toạ độ VN-2000, kinh tuyến trục 1050 45’ múi chiếu 3 độ)
thuộc thủy phận xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre để hút cát từ lòng sông lên khoang
chứa của ghe thì bị Tổ công tác của Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về
môi trường Công an tỉnh B phát hiện bắt quả tang. Khối lượng cát sông đã khai
thác được 8,352m3, trị giá 551.232 đồng.
[3] Về tội danh: Bị cáo là người thành niên, có năng lực trách nhiệm hìnhsự; mặc dù đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác khoáng sản
(cát sông) trái phép chưa được xóa tiền sự, không được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cấp phép khai thác khoáng sản và tại khu vực bị cáo khai thác cát
sông trên tuyến sông H thuộc địa giới hành chính xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre
thì Ủy ban nhân dân tỉnh B không có cấp phép khai thác khoáng sản (cát lòng
sông) cho tổ chức, cá nhân nào, nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi khai thác
khoáng sản trái phép với khối lượng 8,352m3 cát; bị cáo phạm tội với lỗi cố ý;
hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quy định của Nhà nước về khai thác
tài nguyên trong đất liền, nội thủy của Việt Nam mà không có giấy phép, gây8
ảnh hưởng xấu đến tài nguyên, môi trường sinh thái và trật tự quản lý kinh tế của
Nhà nước. Với ý thức, hành vi, hậu quả xảy ra và nhân thân của bị cáo, thấy rằng
Bản cáo trạng số: 68/CT-VKSBT-P1 ngày 18/10/2023 của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Bến Tre đã truy tố Nguyễn Văn V về “Tội vi phạm quy định về khai
thác tài nguyên” với tình tiết định khung “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm” theo điểm đ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật
Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[4] Về nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội; thủ đoạn, độngcơ, mục đích phạm tội; tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra:
Xuất phát từ việc bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ chồng đã ly hôn, là
lao động chính phải đi làm kiếm tiền chăm lo cho gia đình có 02 con nhỏ; mặc
dù bản thân bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác
khoáng sản trái phép chưa được xóa tiền sự, không được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cấp phép khai thác khoáng sản và tại khu vực bị cáo khai thác cát
sông thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không có cấp phép khai thác khoáng
sản (cát lòng sông) cho tổ chức, cá nhân nào, nhưng bị cáo vẫn thuê Đặng Thanh
T cùng thực hiện hành vi khai thác cát sông trái phép; bị cáo sử dụng ghe gỗ
cùng dụng cụ bơm hút cát có sẵn trên ghe, thực hiện bơm hút cát sông trái phép
vào thời điểm đêm tối để tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng; bị cáo trực
tiếp điều khiển ghe, đề máy hút cát, thả vòi hút xuống sông để hút cát lên ghe;
Đặng Thanh T thả neo, canh bơm nước cho ghe không bị vô nước hầm mũi, hầm
máy; tại thời điểm cơ quan chức năng kiểm tra phát hiện hành vi khai thác cát
sông trái phép của bị cáo và Đặng Thanh T thì khối lượng cát sông mà bị cáo đã
khai thác trái phép được xác định là 8,352m3 cát. Hành vi phạm tội của bị cáo đã
thể hiện ý thức xem thường pháp luật, vi phạm các quy định của Nhà nước về
khai thác tài nguyên trong đất liền, nội thủy của Việt Nam mà không có giấy
phép, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, là nguyên nhân gây ra
biến đổi xấu về môi trường.
[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; lượnghình: Bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác khoáng sản
trái phép, chưa được xóa tiền sự nên xét về nhân thân là không tốt; bị cáo không
có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 của Bộ luật Hình sự; bị
cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình
sự, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo có
ông ngoại là liệt sĩ, hiện đang nuôi 02 con nhỏ nên được hưởng tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Mặc dù bị9
cáo phạm tội có khung hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, thuộc loại tội phạm
ít nghiêm trọng bởi tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn, có
nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1,
khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên thấy rằng; vào ngày 31/8/2018,
bị cáo bị xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 15.000.000 đồng về hành vi
khai thác trái phép khối lượng 27m3 cát sông; vào ngày 04/10/2018, bị cáo bị xử
phạt vi phạm hành chính với số tiền 3.000.000 đồng về hành vi khai thác trái
phép khối lượng 4,62m3 cát sông; vào ngày 09/11/2018, bị cáo bị xử phạt vi
phạm hành chính với số tiền 5.000.000 đồng về hành vi khai thác trái phép khối
lượng 13,5m3 cát sông; vào ngày 24/12/2019, bị cáo bị xử phạt vi phạm hành
chính với số tiền 20.000.000 đồng về hành vi khai thác trái phép khối lượng
28,1385m3 cát sông; đến ngày 29/8/2022, bị cáo bị xử phạt vi phạm hành chính
với số tiền 63.988.640 đồng về hành vi khai thác trái phép khối lượng 7,776m3
cát sông, lần này chưa được xóa tiền sự nhưng bị cáo vẫn không dừng lại; đến
ngày 18/6/2023, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi khai thác trái phép khối
lượng 8,352m3 cát sông và bị bắt quả tang nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình
sự, điều đó đã thể hiện ý thức xem thường pháp luật của bị cáo. Xét thấy trong
giai đoạn hiện nay tình hình khai thác cát trên sông diễn ra phức tạp, đã gây sạt
lở đất canh tác, sạt lở bờ sông, gây bức xúc trong nhân dân. Qua xem xét tính
chất của vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả xảy
ra, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét
thấy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải áp dụng loại hình phạt theo quy định
tại Điều 38 của Bộ luật Hình sự, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời
gian nhất định mới đủ sức giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[6] Về xử lý vật chứng:– Đối với ghe gỗ, không biển kiểm soát, không giấy tờ và động cơ dùng để
chạy phương tiện, nhãn hiệu CUMMINS 6, đây là tài sản thuộc sở hữu của ông
Nguyễn Thành C. Ông C cho bị cáo thuê sử dụng, ông C không biết bị cáo sử
dụng vào việc khai thác cát trái phép nên không có lỗi, cần trả lại cho ông
Nguyễn Thành C là phù hợp.
– Đối với các động cơ, hệ thống, tời để kéo neo do bị cáo tự ý trang bị, lắp
đặt trên ghe khi thuê ghe của ông Nguyễn Thành C để sử dụng vào việc bơm,
hút cát trái phép mà ông C không biết. Đây là công cụ, phương tiện dùng vào
việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước là phù hợp.
– Đối với cát sông khối lượng 8,352m3 (trừ 20kg) và 01 mẫu cát sông còn
lại sau khi trưng cầu giám định. Đây là vật do phạm tội mà có nên cần tịch thu
sung vào ngân sách Nhà nước là phù hợp.
[7] Về các vấn đề khác:10– Quan điểm của Kiểm sát viên về tội danh, hình phạt đối với bị cáo, xử lý
vật chứng của vụ án là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.
– Đối với Đặng Thanh T; ngày 24/12/2020 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện B, tỉnh Bến Tre xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 45.812.860 đồng
về hành vi khai thác khoáng sản trái phép với khối lượng 2,508m3 cát sông, ngày
27/4/2021 T đã nộp phạt xong. Do đó, đến ngày 18/6/2023 thì T được coi là
chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác khoáng sản trái phép,
nên hành vi của T không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Ngày 04/8/2023, Giám
đốc Công an tỉnh B đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đặng
Thanh T số tiền 30.000.000 đồng.
– Đối với Phùng Văn N có mặt trên ghe nhưng không tham gia khai thác cát
trái phép cùng với bị cáo Nguyễn Văn V và Đặng Thanh T nên không xử lý.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm “Tội vi phạm quy định về khai thác
tài nguyên”;
1. Về trách nhiệm hình sự:
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 227; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 09 (chín) tháng tù;
Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự;
* Trả lại cho ông Nguyễn Thành C, gồm:
– 01 (một) ghe gỗ, không biển kiểm soát, chiều dài lớn nhất 21,35m, chiều
rộng lớn nhất 5,5m, chiều sâu lớn nhất 3,2m.
– Động cơ dùng để chạy phương tiện, nhãn hiệu CUMMINS 6, số hiệu
11067716, không rõ công suất.
(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/10/2023 giữa
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B với Cục Thi hành án tỉnh Bến Tre).
* Tịch thu sung ngân sách Nhà nước, gồm:
– 02 (hai) động cơ dùng để hút cát:
+ Động cơ 1: Nhãn hiệu KOMATSU 4, số hiệu 4D92-1-53778, không rõ
công suất.
+ Động cơ 2: Máy 6, không rõ số hiệu, công suất.11
– Hệ thống hút cát từ lòng sông lên phương tiện:
+ Hệ thống hút 1: 01 đầu bơm bằng kim loại, một đầu nối với ống hút cát từ lòng
sông lên bằng nhựa màu đen dài 18,0m, đường kính 0,2m, cuối ống nối với ống hút
bằng sắt dài 1,7m, đường kính 0,2m, nối với tuýp sắt dài 4,0m, đường kính 0,06m, đầu
còn lại nối với ống nhựa màu xanh để đưa cát vào khoang chứa dài 1,0m, đường kính
0,2m, nối với máy hút (máy 6) thông qua dây curoa.
+ Hệ thống hút 2: 01 đầu bơm bằng kim loại, một đầu nối với ống hút cát từ lòng
sông lên bằng nhựa màu xanh dài 18,0m, đường kính 0,2m, cuối ống nối với ống hút
bằng sắt dài 1,0m đường kính 0,2m, nối với tuýp sắt dài 2,5m, đường kính 0,06m, đầu
còn lại nối với ống nhựa màu trắng để đưa cát vào khoang chứa dài 1,0m, đường kính
0,2m, nối với máy hút (máy KOMATSU 4) thông qua dây curoa.
– Hệ thống hút cát từ khoang chứa lên bờ: 01 đầu bơm bằng kim loại, một đầu
nối với ống hút cát trong khoang bằng nhựa màu trắng dài 4,0m, đường kính 0,14m,
một đầu nối với ống cát lên bờ bằng bố màu đen dài 3,0m, đường kính 0,14m, tiếp tục
nối với ống nhựa màu xanh dài 4,0m, nối với máy hút thông qua dây curoa.
– Hệ thống bơm nước: 01 đầu bơm bằng kim loại, một đầu nối với ống nhựa màu
xanh dài 4,0m, đường kính 0,10m, đầu còn lại nối với ống nhựa màu vàng, dài 8,0m,
đường kính 0,06m, nối với máy hút thông qua dây curoa.
– 01 (một) tời để kéo neo.
– Cát sông, khối lượng 8,352m3 (trừ 20 kg).
– 01 (một) mẫu cát sông chứa trong túi nilon, được dán niêm phong đóng dấu
của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre, ký hiệu KS-22/55/18/6/23.
Tình trạng vật chứng: tại thời điểm giao nhận, ghe gỗ đã bị chìm (ngập
nước), bị hư hỏng; các đồ vật bằng kim loại đã cũ, rỉ sét. Vì vậy các vật chứng
nêu trên không xác định được chất lượng còn lại.
(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/10/2023 giữa
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bến Tre với Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Bến Tre và Biên bản về việc gửi giữ vật chứng vụ Nguyễn Văn V ngày
30/10/2023 giữa Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre với Phòng Cảnh sát Kinh
tế Công an tỉnh Bến Tre).
3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng
Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội:
Bị cáo Nguyễn Văn V phải nộp: 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình
sự sơ thẩm.
4. Về quyền và thời hạn kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan có quyền làm đơn kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm)
ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
- Vụ án Tranh chấp đòi nhà đường Hồ Xuân Hương, quận 3, Tp.HCM
- Thành lập văn phòng đại diện
- Chồng tôi dùng cây chày giã tiêu đập vào đầu em gái tôi gây thương tích 3% nhưng bị khởi tố tội cố ý gây thương tích???
- Sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài
- Lãi suất thả nổi là gì ?