Làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy xác nhận để thế chấp vay tiền, bị xử lý như thế nào ?

Khai thác cát trái phép phạt hành chính hay xử lý hình sự ?

Luật sư quận Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa cho bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố trong các vụ án hình sự

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ

án được tóm tắt như sau:

Từ trước năm 2019, T.T.H đã nhiều lần vay tiền của bà N.T.L để chăn nuôi và

có trả vốn, lãi vay theo thỏa thuận. Đến đầu năm 2019, bà N.T.L yêu cầu phải có

tài sản thế chấp và có giấy xác nhận của chính quyền địa phương khi T.T.H cần

vay số tiền lớn. Do không có tài sản thế chấp và giấy xác nhận của chính quyền địa

phương, bị cáo T.T.H nảy sinh ý định làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

và giấy xác nhận để thế chấp vay tiền của bà N.T.L. Thông qua mạng xã hội

Facebook, Zalo, T.T.H liên hệ thỏa thuận với những người làm giả giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất giả có giá là 8.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng/giấy

còn giấy xác nhận giả là 1.000.000 đồng/giấy. Sau đó, bị cáo T.T.H đã lấy các

thông tin như họ tên, năm sinh, địa chỉ của bị cáo, ông T.C.Đ (chồng bị cáo),

những người thân trong gia đình chồng bị cáo (T.T.M.H, T.C.S), tự lấy thông tin

cá nhân của người khác (L.T.K.T), tự đặt ra thông tin của những người không có

thật (D.V.P, D.V.Đ, T.T.N) và tự đặt ra các thông tin về thửa đất không có thật như

số thửa, tờ bản đồ, diện tích, địa chỉ thửa đất để cung cấp cho những người làm các

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả. Đồng thời, bị cáo T.T.H lấy thông tin và

chụp ảnh hình dấu tròn của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T, chữ ký ghi tên “N.T.H” là

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã V.Q.T trên Bản sao giấy Trích lục khai sinh của

T.N.T.V (là con ruột bị cáo) và chứng thực trên tờ Giấy cam kết ghi tên L.T.K.T

(là người bán đất trước cho vợ chồng bị cáo) để cung cấp cho người làm các giấy

xác nhận giả của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T. Sau khi có được tài liệu giả, bị cáo

T.T.H sử dụng các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả đưa cho bà N.T.L để

thỏa thuận thế chấp vay tiền. Khi thống nhất được số tiền vay, bị cáo T.T.H sử

dụng các giấy xác nhận giả tự viết thông tin có nội dung bị cáo hoặc T.C.Đ (là

chồng bị cáo) vay tiền của bà N.T.L, hoặc tự viết thông tin không có thật về nội

dung người khác có vay tiền và thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị3

cáo, rồi đưa cho bà N.T.L để thỏa thuận thế chấp vay tiền. Với phương thức và thủ

đoạn nêu trên, từ tháng 03/2019 đến tháng 05/2021, bị cáo T.T.H đã cung cấp

thông tin làm 16 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả và 18 giấy xác nhận giả

của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T, rồi sử dụng 15 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

giả, 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật tên T.C.L.E không do bị cáo T.T.H

làm chủ sở hữu và 18 giấy xác nhận giả để thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà

N.T.L 20 lần; đồng thời sử dụng 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả thỏa

thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.P 03 lần. Đến ngày 27/5/2021, 28/5/2021 và

01/6/2021, bà N.T.L và bà N.T.P mang các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà

bị cáo T.T.H thế chấp vay tiền đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện

B.Đ kiểm tra thì bị phát hiện có dấu hiệu là giả. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất

đai huyện B.Đ tạm giữ 17 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển đến cơ quan

điều tra xử lý; bà N.T.L và bà N.T.P gửi đơn tố giác đối với bị cáo T.T.H và giao

nộp 18 giấy xác nhận giả do bị cáo T.T.H viết thế chấp vay tiền. Cụ thể từng lần mà bị cáo T.T.H thỏa thuận vay tiền của bà N.T.L và bà

N.T.P như sau:

– Đối với bà N.T.L:

+ Lần 1: Ngày 06/3/2019 (nhằm ngày 01/02/2019 âm lịch, bị cáo T.T.H ghi

trên giấy nhầm ngày 30/01/2019), sau khi làm giả có được 01 giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất tên T.T.H, thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 4.XXX

m2, địa chỉ đất tại ấp V.G, xã T.L, huyện B.Đ và 01 giấy xác nhận của Ủy ban

nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

giả này thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.L. Sau đó, bị cáo T.T.H tự viết vào

giấy xác nhận giả với nội dung bị cáo T.T.H vay của bà N.T.L số tiền 500.000.000

đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 2: Ngày 08/12/2019 (nhằm ngày 13/11/2019 âm lịch), bị cáo T.T.H tự

viết một tờ giấy với nội dung T.C.L.E cùng vợ là T.T.M.H thỏa thuận vay của

T.T.H số tiền 100.000.000 đồng vào ngày 25/4/2019, thế chấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất tên T.C.L.E, thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 1.XXX

m2, địa chỉ đất tại ấp V.H, xã V.Q.T, huyện B.Đ. Sau đó, bị cáo T.T.H đưa tờ giấy

trên và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.C.L.E thỏa thuận thế chấp vay

của bà N.T.L số tiền 100.000.000 đồng, rồi bị cáo T.T.H viết giấy vay và đưa các

tài liệu này cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 3: Ngày 09/01/2020 (nhằm ngày 15/12/2019 âm lịch), sau khi làm giả

có được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.T.M.H, thửa đất số XXX, tờ

bản đồ số X, diện tích 4.XXX m2, địa chỉ đất tại xã V.Q.T, huyện B.Đ và 01 giấy

xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy chứng nhận4

quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.L; đồng thời bị

cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả với nội dung T.T.M.H vay của T.T.H số tiền

300.000.000 đồng vào ngày 14/3/2019, thế chấp 01 giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất tên T.T.M.H. Sau đó, bị cáo T.T.H viết giấy vay của bà N.T.L số tiền

300.000.000 đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 4: Ngày 23/01/2020 (nhằm ngày 29/12/2019 âm lịch), sau khi làm giả

có được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.C.S, thửa đất số XXX, XXX,

XXX, XXX, XXX, XXX, tờ bản đồ số 2, tổng diện tích 12.XXX m2, địa chỉ đất tại

xã V.Q.T, huyện B.Đ và 01 giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị

cáo T.T.H sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp

vay tiền của bà N.T.L; đồng thời bị cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả với nội

dung T.C.S vay của T.T.H số tiền 600.000.000 đồng vào ngày 22/3/2019, thế chấp

01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.C.S. Sau đó, bị cáo T.T.H viết giấy

vay của bà N.T.L số tiền 600.000.000 đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu trên cho bà

N.T.L giữ.

+ Lần 5: Ngày 15/3/2020 (nhằm ngày 22/02/2020 âm lịch), sau khi làm giả có

được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.C.Đ, thửa đất số XXX, tờ bản

đồ số X, diện tích 5.XXX m2, địa chỉ đất tại ấp Vinh Điền, xã V.Q.T, huyện B.Đ

và 01 giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.L.

Sau đó, bị cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả nội dung T.C.Đ vay của bà N.T.L

số tiền 500.000.000 đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 6: Ngày 14/4/2020 (nhằm ngày 22/3/2020 âm lịch), sau khi làm giả có

được 01 giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H thỏa thuận

vay tiền của bà N.T.L, thế chấp thêm vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả

tên T.C.Đ, thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 5.XXX m2, địa chỉ đất tại ấp

Vinh Điền, xã V.Q.T, huyên B.Đ (mà bị cáo đã sử dụng thế chấp vay tiền của bà

N.T.L tại lần 5). Sau đó, bị cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả nội dung T.C.Đ

vay của bà N.T.L số tiền 300.000.000 đồng, rồi đưa giấy xác nhận giả nêu trên cho

bà N.T.L giữ.

+ Lần 7: Ngày 05/5/2020 (nhằm ngày 13/4/2020 âm lịch), sau khi làm giả có

được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên Dương Văn Phương, các thửa đất

số XXX, XXX, XXX, XXX, XXX, XXX, tờ bản đồ số X, tổng diện tích 10.XXX

m2, địa chỉ đất tại xã V.Q.T, huyên B.Đ và 01 giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân

xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này

thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.L; đồng thời bị cáo T.T.H viết vào giấy

xác nhận giả với nội dung Dương Văn Phương vay của T.T.H số tiền 600.000.0005

đồng vào ngày 07/4/2020, thế chấp 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên

Dương Văn Phương. Sau đó, bị cáo T.T.H viết giấy vay của bà N.T.L số tiền

600.000.000 đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 8: Ngày 11/6/2020 (nhằm ngày 20/4/2020 âm lịch, tháng 4 sau), sau khi

làm giả có được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.C.Đ, thửa đất số XXX,

tờ bản đồ số X, diện tích 3.XXX m2, địa chỉ đất tại xã V.Q.T, huyên B.Đ và 01

giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.L. Sau đó,

bị cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả nội dung T.C.Đ vay của bà N.T.L số tiền

500.000.000 đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 9: Ngày 04/8/2020 (nhằm ngày 15/6/2020 âm lịch), sau khi làm giả có

được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên D.V.Đ, thửa đất số XXX, XXX,

XXX, XXX, XXX, XXX, tờ bản đồ số X, tổng diện tích 11.XXX m2, địa chỉ đất

tại Ấp 4, xã T.L, huyên B.Đ và 01 giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T

thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận

thế chấp vay tiền của bà N.T.L; đồng thời bị cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả

với nội dung D.V.Đ vay của T.T.H số tiền 600.000.000 đồng vào ngày 12/5/2019,

thế chấp 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên D.V.Đ. Sau đó, bị cáo T.T.H

viết giấy vay của bà N.T.L số tiền 600.000.000 đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu

trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 10: Ngày 09/8/2020 (nhằm ngày 20/6/2020 âm lịch), sau khi làm giả có

được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên bà T.T.H, thửa đất số 63, tờ bản

đồ số 21, diện tích 4.327 m2, địa chỉ đất tại xã Phú Vang, huyên B.Đ thì bị cáo

T.T.H sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp vay

tiền của bà N.T.L. Sau đó, bị cáo T.T.H viết giấy vay của bà N.T.L số tiền

500.000.000 đồng, rồi đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả nêu trên cho bà

N.T.L giữ.

+ Lần 11: Ngày 28/8/2020 (nhằm ngày 10/7/2020 âm lịch), sau khi làm giả có

được 01 giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H thỏa thuận

vay tiền của bà N.T.L, thế chấp thêm vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả

tên T.C.Đ, thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 5.XXX m2, địa chỉ đất tại ấp

V.Đ, xã V.Q.T, huyên B.Đ (mà bị cáo đã sử dụng thế chấp vay tiền của bà N.T.L

tại lần 5 và lần 6). Sau đó, bị cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả nội dung T.C.Đ

vay của bà N.T.L số tiền 1.000.000.000 đồng, rồi đưa giấy xác nhận giả nêu trên

cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 12: Ngày 07/9/2020 (nhằm ngày 20/7/2020 âm lịch), sau khi làm giả có

được 01 giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H thỏa thuận6

vay tiền của bà N.T.L, thế chấp thêm vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả

tên T.C.Đ, thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 3.XXX m2, địa chỉ đất tại xã

V.Q.T, huyên B.Đ (mà bị cáo đã sử dụng thế chấp vay tiền của bà N.T.L tại lần 8).

Sau đó, bị cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả nội dung T.C.Đ vay của bà N.T.L

số tiền 1.000.000.000 đồng, rồi đưa giấy xác nhận giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 13: Ngày 02/10/2020 (nhằm ngày 16/8/2020 âm lịch), sau khi làm giả

có được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.T.H, thửa đất số XXX, tờ bản

đồ số X, diện tích 3.XXX m2, địa chỉ đất tại xã V.Q.T, huyên B.Đ thì bị cáo T.T.H

sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp vay tiền

của bà N.T.L. Sau đó, bị cáo T.T.H viết giấy vay của bà N.T.L số tiền 500.000.000

đồng, rồi đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 14: Ngày 04/12/2020 (nhằm ngày 20/10/2020 âm lịch), sau khi làm giả

có được 01 giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H thỏa

thuận vay tiền của bà N.T.L, thế chấp thêm vào giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất giả tên T.T.H, thửa đất số 443, tờ bản đồ số 7, diện tích 4.375 m2, địa chỉ đất

tại ấp V.G, xã T.L, huyên B.Đ (mà bị cáo đã sử dụng thế chấp vay tiền của bà

N.T.L tại lần 1). Sau đó, bị cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả nội dung bị cáo

vay của bà N.T.L số tiền 800.000.000 đồng, rồi đưa giấy xác nhận giả nêu trên cho

bà N.T.L giữ.

+ Lần 15: Ngày 06/12/2020 (nhằm ngày 22/10/2020 âm lịch), sau khi làm giả

có được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên L.T.K.T, thửa đất số XXX, tờ

bản đồ số X, diện tích 6.XXX,3 m2,địa chỉ đất tại xã V.Q.T, huyên B.Đ và 01 giấy

xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.L; đồng thời bị

cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả với nội dung L.T.K.T vay của T.T.H số tiền

450.000.000 đồng vào ngày 15/4/2020, thế chấp 01 giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất tên L.T.K.T. Sau đó, bị cáo T.T.H viết giấy vay của bà N.T.L số tiền

450.000.000 đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 16: Ngày 01/02/2021 (nhằm ngày 20/12/2020 âm lịch), sau khi làm giả

có được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên Trần Thị Nhung, thửa đất số

XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 5.XXX,0 m2 địa chỉ tại xã V.Q.T, huyên B.Đ và 01

giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.L; đồng

thời bị cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả với nội dung Trần Thị Nhung vay của

T.T.H số tiền 400.000.000 đồng vào ngày 17/9/2019, thế chấp 01 giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất tên Trần Thị Nhung. Sau đó, bị cáo T.T.H viết giấy vay của bà

N.T.L số tiền 500.000.000 đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.7

+ Lần 17: Ngày 09/02/2021 (nhằm ngày 28/12/2020 âm lịch), sau khi làm giả

có được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.T.H, thửa đất số XX, tờ bản

đồ số XX, diện tích 4.XXX m2, địa chỉ đất tại xã T.L, huyên B.Đ và 01 giấy xác

nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.L. Sau đó, bị

cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả nội dung bị cáo vay của bà N.T.L số tiền

500.000.000 đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 18: Ngày 14/3/2021 (nhằm ngày 02/02/2021 âm lịch), sau khi làm giả

có được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.T.H, thửa đất số XXX, tờ bản

đồ số X, diện tích 2.XXX m2, địa chỉ đất tại xã V.Q.T, huyên B.Đ và 01 giấy xác

nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.L. Sau đó, bị

cáo T.T.H viết vào giấy xác nhận giả nội dung bị cáo vay của bà N.T.L số tiền

300.000.000 đồng, rồi đưa các tài liệu giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 19: Ngày 19/4/2021, sau khi làm giả có được 01 giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất tên T.T.H, thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 5.XXX,0

m2, địa chỉ đất tại xã V.Q.T, huyên B.Đ và 01 giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân

xã V.Q.T thì bị cáo T.T.H sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này

thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.L. Sau đó, bị cáo T.T.H viết vào giấy xác

nhận giả nội dung bị cáo vay của bà N.T.L số tiền 500.000.000 đồng, rồi đưa các

tài liệu giả nêu trên cho bà N.T.L giữ.

+ Lần 20: Ngày 20/5/2021 (nhằm ngày 09/4/2021 âm lịch), sau khi làm giả có

được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.T.H, thửa đất số XXX, tờ bản

đồ số X, diện tích 5.XXX,9 m2, địa chỉ đất tại xã V.Q.T, huyên B.Đ thì bị cáo

T.T.H sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này thỏa thuận thế chấp vay

tiền của bà N.T.L. Sau đó, bị cáo T.T.H viết giấy vay của bà N.T.L số tiền

100.000.000 đồng, rồi đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả nêu trên cho bà

N.T.L giữ.

Tổng số tiền bị cáo T.T.H thỏa thuận vay của bà N.T.L 20 lần như trên là

10.150.000.000 (mười tỷ, một trăm năm mươi triệu) đồng.

– Đối với bà N.T.P: Ngày 31/3/2021 (nhằm ngày 19/02/2021 âm lịch), sau khi

làm giả có được 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên T.T.H, thửa đất số XX,

tờ bản đồ số XX, diện tích 4.XXX,1 m2, địa chỉ đất tại xã T.L, huyên B.Đ thì bị

cáo T.T.H sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này đưa cho bà N.T.P

để thỏa thuận thế chấp vay số tiền 600.000.000 (Sáu trăm triệu) đồng. Sau đó, bị

cáo T.T.H viết giấy vay và nhận tiền vay của bà N.T.P 03 lần. Cụ thể là: Ngày

31/3/2021, bị cáo T.T.H nhận tiền vay của bà N.T.P 02 lần, mỗi lần là 200.000.0008

đồng; ngày 21/4/2021 (nhằm ngày 10/3/2021 âm lịch), bị cáo T.T.H nhận tiền vay

của bà N.T.P là 200 triệu đồng.

Trong quá trình điều tra, bà T.T.H trình bày về 20 lần vay tiền của bà N.T.L

như sau:

– Thời gian thỏa thuận vay tiền lần 5 là ngày 15/3/2019 âm lịch, không phải

ngày 22/02/2020 âm lịch; thời gian thỏa thuận vay tiền lần 11 là ngày 30/3/2019

âm lịch, không phải ngày 10/7/2020 âm lịch.

– Số tiền thỏa thuận vay lần 6 là 800.000.000 đồng, không phải 300.000.000

đồng; số tiền thỏa thuận vay lần 12 là 500.000.000 đồng, không phải

1.000.000.000 đồng; số tiền thỏa thuận vay lần 14 là 300.000.000 đồng, không

phải 800.000.000 đồng. Do đó, tổng số tiền của 20 lần vay là 9.650.000.000 đồng.

– Trong 20 lần vay, có 03 lần thỏa thuận vay tiền (lần 2, lần 8 và lần 20) thì bà

N.T.L có trực tiếp đưa tiền vay cho bị cáo T.T.H, tổng số tiền mà bị cáo T.T.H đã

nhận đối với 03 lần vay này là 700.000.000 đồng; có 03 lần thỏa thuận vay tiền

(lần 1, lần 6 và lần 11) thì bà N.T.L không có trực tiếp đưa tiền vay cho bị cáo

T.T.H, mà tổng số tiền vay 2.300.000.000 đồng của 03 lần này được chuyển từ

tổng số tiền vay 2.330.000.000 đồng của 16 giấy vay không có thế chấp giấy tờ, tài

sản trước đó.

– Ngoài ra, đối với 14 lần vay còn lại tổng tiền 6.650.000.000 đồng (theo

thống kê của bị cáo T.T.H) thì bà N.T.L không có đưa tiền, số tiền ghi trên các

giấy vay này là tiền lãi của các khoản vay trước, do bị cáo T.T.H không có tiền

đóng lãi nên là thỏa thuận chuyển từ tiền nợ lãi vay thành vốn vay mới.

Nhận thấy, giấy vay tiền lần 5 có ghi nội dung tính tiền lãi vay từ ngày

22/02/2020 âm lịch, giấy vay tiền lần 11 thì bà N.T.L có tài liệu ghi lại thời gian

vay là ngày 10/7/2020 âm lịch. Đối với số tiền vay của lần 6, lần 12 và lần 14 thì

kết quả giám định xác định chữ viết trên các giấy vay này về số tiền vay so với chữ

viết của bị cáo T.T.H là do cùng một người viết ra; khi ghi số tiền vay trên các giấy

vay này thì bị cáo T.T.H biết rõ số tiền mà bị cáo đã thỏa thuận vay của bà N.T.L.

Còn đối với 03 lần vay tiền tại lần 1, lần 6 và lần 11, qua thống kê với bị cáo T.T.H

xác định số tiền ghi trên từng giấy vay này không thống nhất với số tiền ghi trên 16

giấy vay không có thế chấp trước đó như bị cáo T.T.H đã giao nộp. Riêng bị cáo

cho rằng 14 lần vay tổng tiền 6.650.000.000 đồng chỉ là lãi thỏa thuận chuyển

thành vốn chứ không phải là tiền gốc nhưng kết quả mà bị cáo tự thống kê tiền lãi

của từng khoản vay là không đúng với số tiền ghi trên từng giấy vay của các lần

vay này.

Ngoài lời trình bày của bị cáo T.T.H về những vấn đề nêu trên thì bị cáo

không có tài liệu hay cơ sở nào khác để chứng minh các nội dung nêu trên; qua đối9

chất thì bà N.T.L cũng không đồng ý lời trình bày của bị cáo T.T.H. Trong khi đó,

bà N.T.L trình bày thời gian và số tiền cho bị cáo T.T.H vay là đúng theo các giấy

vay mà bị cáo T.T.H đã viết, từng lần cho vay tiền thì bị cáo T.T.H có nhận đủ tiền

theo các giấy vay. Lời trình bày này của bà N.T.L là phù hợp với các tài liệu,

chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra.

* Tài liệu, đồ vật thu giữ:

– Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyên B.Đ tạm giữ của N.T.L, N.T.P

và bàn giao cho Cơ quan điều tra 17 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bị cáo

T.T.H đã đưa cho bà N.T.L và bà N.T.P thế chấp vay tiền.

– Bà N.T.L giao nộp theo Biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử

ngày 02/6/2021 gồm: 18 tờ giấy xác nhận ghi nội dung vay tiền có hình dấu tròn

của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T và chữ ký ghi tên N.T.H – Phó Chủ tịch Ủy ban

nhân dân xã V.Q.T; 08 tờ giấy ghi nội dung vay tiền giữa T.T.H với bà N.T.L; 01

tờ giấy ghi nội dung vay tiền giữa T.C.L.E và T.T.M.H với T.T.H; 01 tờ giấy ghi

ngày 25/3 có nội dung thỏa thuận tiền có chữ ký của T.T.H và bà N.T.L.

– Bà N.T.P giao nộp 01 tờ giấy có nội dung bị cáo T.T.H thỏa thuận vay và

nhận tiền vay của bà N.T.P theo Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm ngày

02/6/2021

– Bị cáo T.T.H giao nộp:

+ 01 bản trích lục khai sinh mang tên T.N.T.V có hình dấu tròn và chữ ký xác

nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T; 01 tờ cam kết ghi tên L.T.K.T có dấu chứng

thực của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T. Bị cáo T.T.H trình bày đã chụp ảnh tài liệu

này gửi cho người làm các giấy xác nhận giả của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T.

+ 01 điện thoại di động hiệu Sam sung mặt trước màu đen, mặt sau màu xanh,

đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng. Bị

cáo T.T.H trình bày đã sử dụng để liên hệ đặt mua, nhận các tài liệu giả.

+ 16 giấy hợp đồng vay tiền giữa bà N.T.L với T.T.H, được tạm giữ theo Biên

bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử ngày 10/6/2021.

+ 01 quyển tập học sinh có nhiều chữ số, trên các trang giấy được đánh số thứ

tự từ 01 đến 04 tạm giữ theo Biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử

ngày 10/6/2021.

+ 01 quyển sổ bìa cứng màu xanh, bên trong có nhiều chữ viết, chữ số được

viết bằng mực màu xanh và màu đỏ, được đánh số thứ tự từ 1 đến 28, được tạm giữ

theo Biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử ngày 15/7/2021.

+ 02 quyển tập học sinh được bấm dính lại với nhau, trên giấy có nhiều chữ

viết và chữ số được viết bằng mực xanh và mực đỏ, được đánh số thứ tự từ 1 đến

14, được tạm giữ theo Biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử ngày10

10/6/2021. Qua làm việc, bị cáo T.T.H xác định tại trang số thứ tự 9 là nội dung

mà bà N.T.L viết đưa cho bị cáo T.T.H về việc thỏa thuận trừ tiền vay 450.000.000

đồng lần thế chấp sổ đất tên L.T.K.T.

– Khám xét nơi ở của bị cáo T.T.H vào ngày 10/12/2021 thu giữ: 17 tờ giấy

ghi “Hợp đồng vay tiền” giữa bị cáo T.T.H với bà N.T.L; 01 tập học sinh có 27

trang. Bị cáo T.T.H trình bày: 17 tờ giấy ghi “Hợp đồng vay tiền” là các giấy vay

tiền không có thế chấp trước đây giữa bị cáo T.T.H với bà N.T.L, bị cáo T.T.H đã

trả tiền vốn vay hết cho bà N.T.L, không còn nợ tiền đối với các giấy vay này; nội

dung ghi trong tập học sinh có 27 trang là các lần vay tiền của bà N.T.L mà bị cáo

T.T.H tự nhớ và tự ghi lại sau khi bị phát hiện sử dụng giấy tờ giả vay tiền.

– Bà T.T.M.H giao nộp 01 tờ giấy thỏa thuận ngày 25/4/2019 với nội dung

ông T.C.Đ thỏa thuận vay của bà T.T.M.H số tiền 500.000.000 đồng, thế chấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số XXX, XXX và XXX, có chứng

thực của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T.

– Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyên B.Đ cung cấp: 01 Giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất số CR 369XXX, người sử dụng đất là T.C.Đ, thửa đất

XXX, tờ bản đồ số 8 tại xã V.Q.T, huyên B.Đ; 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất số CR 369XXX, người sử dụng đất là T.C.Đ, thửa đất XXX, tờ bản đồ số X tại

xã V.Q.T, huyên B.Đ; 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 369XXX,

người sử dụng đất là T.C.Đ, thửa đất XXX, tờ bản đồ số X tại xã V.Q.T, huyên

B.Đ.

– Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh huyên

B.Đ – Phòng Giao dịch Lộc Thuận cung cấp bản sao các tài liệu: 01 Hợp đồng thế

chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất số 2020.17.XXX/HĐTC, 01

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất số

2020.17.XXX/HĐTC, 01 Hợp đồng tín dụng số 7104-LAV-2020 XXXXX. Các

hợp đồng ngày cùng ngày 09/6/2020 với nội dung T.T.H và T.C.Đ thế chấp thửa

đất số XX, tờ bản đồ XX tại xã T.L, huyên B.Đ và thửa đất số 193, tờ bản đồ số 2

tại xã V.Q.T, huyên B.Đ vay tiền của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn Việt Nam Chi nhánh huyên B.Đ – Phòng Giao dịch L.T số tiền 730.000.000

đồng.

– Ông T.V.P (cha ruột của T.T.H) giao nộp số tiền 20.000.000 đồng tự nguyện

khắc phục bồi thường một phần hậu quả cho bị cáo T.T.H.

* Kết quả giám định:

– Kết luận giám định số XXX/2021/GĐTL ngày 22/10/2021 của Phòng Kỹ

thuật Hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận giám định với nội dung là: Về 17 giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất mà Chi nhánh mà Văn phòng đăng ký đất đai huyên11

B.Đ tạm giữ của bà N.T.L và N.T.P thì 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (ký

hiệu A2) tên T.C.L.E là thật, 16 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn lại (ký

hiệu A1 và từ A3 đến A17) là giả. Đối với 18 giấy xác nhận do bà N.T.L giao nộp

thì hình dấu tròn có nội dung “U.B.N.D xã V.Q.T H.Bình Đại T.Bến Tre” và chữ

ký mang tên “Nguyễn Thanh Hải” là giả. – Kết luận giám định số XXX/KL-C09B ngày 23/02/2022 của Phân viện Khoa

học Hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định về nội dung phục hồi,

trích xuất dữ liệu tin nhắn, nhật ký cuộc gọi lưu trong 02 điện thoại của bị cáo

T.T.H giao nộp; phục hồi, trích xuất dữ liệu tin nhắn trên tài khoản Facebook, Zalo

của tài khoản “Thảo Vy” được đăng ký bằng số thuê bao 03589XXXX trên điện

thoại của bị cáo T.T.H giao nộp. Tại biên bản làm việc với bị cáo T.T.H vào ngày

25/4/2022 về việc kiểm tra thiết bị lưu trữ kèm Kết luận giám định này xác định

không có trích xuất được thông tin nào liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

– Kết luận giám định số XXX/2022/KL-KTHS ngày 27/5/2022 của Phòng Kỹ

thuật Hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận giám định đối với 18 giấy xác nhận

do bà N.T.L giao nộp ngày 02/6/2021, nội dung là: Các chữ viết trên các tài liệu

này đều là chữ viết của bị cáo T.T.H, trừ chữ viết ghi nội dung “N.T.L”, Nguyễn

Thị Hồng” và trừ chữ viết có nội dung “500.000.000 Năm trăm triệu đồng” trên tờ

“giấy thỏa thuận vay tiền” đề ngày XX tháng 4 (sau) âm lịch năm 2020.

– Kết luận giám định số 311/2022/KL-KTHS ngày 12/7/2022 của Phòng Kỹ

thuật Hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận giám định đối với 02 tờ giấy do bà

N.T.L giao nộp ngày 17/6/2022, nội dung là: Các chữ viết trên tờ giấy nội dung từ

“Đóng lãi tháng 2” đến “một TRăm tám mươi Triệu” so với chữ viết của bị cáo

T.T.H là do cùng một người viết ra; Không đủ cơ sở kết luận chữ viết trên tờ giấy

có nội dung “ngày mùng 10, Tháng 7: 1 tỷ” so với chữ viết của bị cáo T.T.H có

phải do cùng một người viết ra hay không.

* Về trách nhiệm dân sự:

– Đối với bị hại N.T.L: Bị cáo T.T.H đã có trả lại tiền vốn vay cho bà N.T.L

số tiền 100.000.000 đồng. Đồng thời, vào ngày 06/5/2021 (nhằm ngày 25/3/2021

âm lịch) thì giữa bị cáo T.T.H và bà N.T.L có thỏa thuận lấy tiền hốt hụi trừ vào số

tiền vốn của lần vay mà bị cáo đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên

L.T.K.T, số tiền thỏa thuận cấn trừ là 350.000.000 đồng, bị cáo T.T.H có viết giấy

đưa cho N.T.L về thỏa thuận này. Bị cáo T.T.H trình bày lúc ban đầu thì có thỏa

thuận cấn trừ tiền vốn vay 350.000.000 đồng nhưng đến ngày 28/5/2021 thì giữa bị

cáo với bà N.T.L đã thống nhất số tiền cấn trừ là 450.000.000 đồng, bà N.T.L có

viết giấy về nội dung này. Bà N.T.L không thừa nhận có thỏa thuận cấn trừ12

450.000.000 đồng. Do vậy, bà N.T.L yêu bị cáo T.T.H hoàn trả là 9.700.000.000

đồng, không tính lãi suất phát sinh.

Về số tiền lãi mà bị cáo T.T.H đã trả cho bà N.T.L: Bị cáo T.T.H trình bày đã

vay tiền của bà N.T.L mức lãi suất là X% trên một tháng trên số tiền vay, bị cáo

yêu cầu tính tiền lãi vượt mức quy định mà bị cáo đã trả cho bà N.T.L để trừ vào

tổng tiền mà bị cáo phải hoàn trả cho bà N.T.L. Tuy nhiên, bà N.T.L trình bày đã

cho bị cáo T.T.H vay với mức lãi suất là X% trên một tháng trên số tiền vay, bà

N.T.L thống kê tổng số tiền lãi vượt quy định mà bà N.T.L đã nhận của bị cáo

T.T.H theo mức lãi suất này là 2.029.950.000 đồng.

– Đối với bị hại N.T.P: Bà N.T.P yêu cầu bị cáo T.T.H phải hoàn trả tiền vốn

vay là 600.000.000 đồng và tiền lãi vay theo quy định của Ngân hàng nhà nước từ

tháng 06/2021 cho đến khi được hoàn trả đầy đủ tiền vay. Bị cáo T.T.H yêu cầu

tính tiền lãi vượt mức quy định mà bị cáo đã trả cho bà N.T.P để trừ vào tổng số

tiền mà bị cáo phải hoàn trả cho bà N.T.P.

– Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bến Tre ra Lệnh kê biên tài sản số

XX, XX ngày 08/12/2021 đối với thửa đất XX, tờ bản đồ XX, diện tích XXXX,1

m2 cùng tài sản gắn liền trên đất tọa lạc xã T.L huyên B.Đ, người sử dụng đất là bị

cáo T.T.H; 04 thửa đất và tài sản gắn liền trên đất đứng tên người sử dụng là ông

T.C.Đ gồm các thửa XXX, tờ bản đồ X, diện tích XXX,9 m2, thửa XXX, tờ bản

đồ số X, diện tích XXX m2, thửa XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 2.XXX,9 m2 và

thửa XXX, tờ bản đồ số X, diện tích XXXX,4 m2 .Kết quả định giá tài sản số

XX/KL-HĐĐG ngày 15/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự

tỉnh Bến Tre kết luận tổng giá trị các tài sản theo Lệnh kê biên nêu trên tại thời

điểm tháng 02/2022 là 5.519.271.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 50/CT-VKSBT-P1 ngày 10/11/2022 của Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Bến Tre truy tố bị cáo T.T.H về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự; “Tội làm giả tài liệu của cơ

quan, tổ chức” theo điểm a khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự và “Tội sử dụng

tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình

sự.

Tại phiên tòa:

– Bị cáo trình bày lời khai:

Từ đầu năm 2018, do làm ăn thua lỗ nên bị cáo nhiều lần vay tiền của bà N.T.L

và nhiều lần có trả tiền vốn vay cho bà N.T.L theo đúng thỏa thuận. Đến đầu năm

2019, bị cáo thỏa thuận vay của bà N.T.L với số tiền lớn nên bà N.T.L yêu cầu phải

có tài sản thế chấp và có giấy xác nhận của chính quyền địa phương thì mới cho vay

tiền. Do không có tài sản thế chấp và giấy xác nhận của chính quyền địa phương nên13

bị cáo làm giả các tài liệu gồm 16 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 18 giấy

xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T; bị cáo sử dụng 15 giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất giả, 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật tên T.C.L.E nhưng

không do bị cáo làm chủ sử dụng và 18 giấy xác nhận giả để thỏa thuận thế chấp vay

tiền 20 lần của bà N.T.L với tổng số tiền 9.650.000.000 đồng, bị cáo chỉ nhận của bà

N.T.L số tiền 2.300.000.000 đồng; đồng thời bị cáo sử dụng 01 giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất giả thỏa thuận thế chấp vay tiền của bà N.T.P, bị cáo nhận tiền 03

lần với tổng số tiền 600.000.000 đồng. Đối với tiền vốn vay của bà N.T.L thì bị cáo

vay với lãi suất XX%, đã trả vốn số tiền 100.000.000 đồng, cấn trừ tiền hụi sang tiền

vốn là 450.000.000 đồng, trả lãi số tiền 547.000.000 đồng. Đối với tiền vốn vay của

bà N.T.P thì bị cáo vay với lãi suất 4%, chưa trả vốn, trả lãi 40.000.000 đồng. Bị cáo

thừa nhận Bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng; bị cáo đồng ý trả nợ theo yêu cầu của

bà N.T.L và N.T.P;

Ngoài ra; bị cáo có vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Chi nhánh huyên B.Đ, tỉnh Bến Tre – Phòng giao dịch L.T số tiền 730.000.000

đồng, bị cáo cùng chồng là T.C.Đ thế chấp thửa đất số XX, tờ bản đồ số XX, diện

tích 4.XXX,1 m2 do bị cáo đứng tên sử dụng và thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X,

diện tích 3.XXX,4 m2 do T.C.Đ đứng tên sử dụng, bị cáo đồng ý trả nợ theo yêu

cầu của Ngân hàng; bị cáo cùng chồng là T.C.Đ có vay của chị T.T.M.H số tiền

500.000.000 đồng, lãi suất XX%/tháng, vợ chồng bị cáo thế chấp cho chị T.T.M.H

thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích XXX,94 m2 do T.C.Đ đứng tên sử

dụng; thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích XXX m2 do T.C.Đ đứng tên sử

dụng và thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 2.XXX,9 m2 do T.C.Đ đứng

tên sử dụng, bị cáo đồng ý trả nợ theo yêu cầu của T.T.M.H;

Hiện 05 thửa đất nêu trên đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bến

Tre kê biên, bị cáo đồng ý kê biên để đảm bảo thi hành án. Bị cáo bị tạm giữ 01

điện thoại di động hiệu Nokia, 01 điện thoại di động hiệu Sam sung, bị cáo đồng ý

tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với số tiền 20.000.000 đồng do cha của bị cáo

giao nộp để bị cáo khắc phục hậu quả và làm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự cho bị cáo, bị cáo không có ý kiến, do Hội đồng xét xử xem xét.

– Bị hại N.T.L trình bày lời khai: bà có cho bị cáo T.T.H vay tiền 20 lần với

tổng số tiền 10.150.000.000 đồng, lãi suất X%/tháng, bị cáo T.T.H có đưa giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V.Q.T cho

bà giữ nhưng bà không biết là giấy giả, nếu biết giấy giả bà không đưa tiền. Trong

quá trình vay tiền; bị cáo T.T.H có trả cho bà tiền vốn vay là 100.000.000 đồng, cấn

trừ tiền hụi vào tiền vốn vay là 350.000.000 đồng, còn nợ tiền vốn vay là

9.700.000.000 đồng; bị cáo T.T.H có trả lãi cho bà theo thống kê của Cơ quan điều14

tra vào ngày 16/8/2022 với tổng số tiền lãi là 3.470.000.000 đồng, trong đó tiền lãi

vay cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự là 1.440.050.000 đồng, tiền lãi vượt

quá quy định là 2.029.950.000 đồng. Nay bà yêu cầu bị cáo T.T.H phải trả cho bà

tiền nợ vốn vay là 9.700.000.000 đồng, khấu trừ tiền lãi vượt quá quy định là

2.029.950.000 đồng, còn lại bị cáo phải trả cho bà số tiền 7.670.050.000 đồng,

không yêu cầu tính lãi. Về trách nhiệm hình sự bà yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị

cáo.

– Bị hại N.T.P trình bày lời khai: bà có cho bị cáo T.T.H vay số tiền

600.000.000 đồng, lãi suất 4%/tháng, cho vay ngày 19/12/2021 âm lịch, bị cáo

T.T.H đóng lãi số tiền 40.000.000 đồng. Theo thống kê của Cơ quan điều tra vào

ngày 18/8/2022 thì tiền lãi đã trả là 40.000.000 đồng, trong đó tiền lãi vay cao nhất

theo quy định của Bộ luật Dân sự là 16.600.000 đồng, tiền lãi vượt quá quy định là

23.400.000 đồng. Nay bà yêu cầu bị cáo T.T.H phải trả cho bà tiền nợ vốn vay là

600.000.000 đồng, khấu trừ tiền lãi vượt quá quy định là 23.400.000 đồng, còn lại bị

cáo phải trả cho bà số tiền 576.600.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Về trách nhiệm

hình sự bà yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

– Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan T.C.Đ trình bày lời khai: Ông hoàn

toàn không biết việc vợ ông là bị cáo T.T.H sử dụng giấy tờ giả để vay tiền của bà

N.T.L và bà N.T.P, ông cũng không thấy số tiền vay này, ông không biết là bao

nhiêu tiền và cũng không có sử dụng những khoản tiền vay này. Ông không có

đứng tên sở hữu thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 3.XXX m2 tại xã

V.Q.T, huyên B.Đ, cũng không có đứng tên sở hữu thửa đất số XXX, tờ bản đồ số

X, diện tích 5.XXX m2 tại ấp V.Đ, xã V.Q.T, huyên B.Đ, cũng hoàn toàn không

thấy, không biết gì về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hai thửa đất này.

Ông không có cung cấp thông tin cá nhân hay nhờ ai làm hai giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất nêu trên. Ông không có viết giấy hay ký tên vào giấy thỏa thuận

vay tiền với bà N.T.L lần nào cả. Hiện tại ông với bị cáo T.T.H có các loại tài sản

gồm: thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích XXX,94 m2; thửa đất số XXX, tờ

bản đồ số X, diện tích XXX m2 và thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích

2.XXX,9 m2, ba thửa đất này do cha mẹ của ông cho riêng ông và do ông đứng tên

sử dụng; thửa đất số XX, tờ bản đồ số XX, diện tích 4.XXX,1 m2 do cha mẹ vợ

cho vợ ông hiện do vợ ông là bị cáo T.T.H đứng tên sử dụng; thửa đất số XXX, tờ

bản đồ số X, diện tích 3.XXX,4 m2 do vợ chồng ông mua của bà L.T.K.T hiện do

ông đứng tên sử dụng. Hiện vợ chồng ông thế chấp thửa đất số XX, tờ bản đồ số

XX, diện tích 4.XXX,1 m2 và thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 3.XXX,4

m2 để vay Ngân hàng số tiền 730.000.000 đồng; thế chấp cho chị T.T.M.H thửa đất

số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích XXX,94 m2; thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X,15

diện tích XXX m2 và thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 2.XXX,9 m2 để

vay số tiền 500.000.000 đồng. Ông đồng ý trả nợ theo yêu cầu của Ngân hàng và

chị T.T.M.H từ tài sản là thửa đất số XX, tờ bản đồ số XX, diện tích 4.XXX,1 m2

và thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 3.XXX,4 m2. Riêng thửa đất số

XXX, tờ bản đồ số X, diện tích XXX,94 m2; thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện

tích XXX m2 và thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 2.XXX,9 m2 ông yêu

cầu không kê biên và trả lại cho ông; hiện tại ngôi nhà vợ chồng ông đang ở nằm

trên thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X. – Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan T.T.M.H trình bày lời khai: Bà có

cho vợ chồng T.T.H và T.C.Đ vay số tiền 500.000.000 đồng vào tháng 4/2019, lãi

suất X%/tháng, bị cáo T.T.H và ông Được có thế chấp cho bà 03 giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất gồm thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích XXX,94 m2;

thửa đất số XXX, tờ bản đồ số X, diện tích XXX m2 và thửa đất số XXX, tờ bản đồ

số X, diện tích 2.XXX,9 m2, hiện bà đã giao 03 giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất này cho Cơ quan điều tra kê biên. Nay bà yêu cầu nếu kê biên 03 giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất nêu trên để đảm bảo thi hành án thì bà yêu cầu bị cáo

T.T.H và ông Được trả cho bà số tiền 500.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

– Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trần Ngọc Hạnh trình bày lời khai:

Ngày 09/6/2020, bị cáo T.T.H ký Hợp đồng tín dụng số XXXX-LAV-

20200XXXX với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi

nhánh huyên B.Đ – Phòng giao dịch Lộc Thuận để vay số tiền 730.000.000 đồng,

lãi suất XX,X%/năm, thời hạn vay 60 tháng, mục đích chăn nuôi. T.T.H cùng

chồng là T.C.Đ lập Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với

đất số 2020.17.034/HĐTC ngày 09/6/2020 để thế chấp thửa đất số XX, tờ bản đồ

số XX, diện tích 4.XXX,1m2, địa chỉ thửa đất xã T.L, huyên B.Đ do T.T.H đứng

tên sử dụng và lập Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

số 2020.17.XXX/HĐTC ngày 09/6/2020 để thế chấp thửa đất số XXX, tờ bản đồ

số X, diện tích 3.XXX,4 m2, địa chỉ thửa đất xã V.Q.T, huyên B.Đ do T.C.Đ đứng

tên sử dụng; hiện 02 thửa đất nêu trên đang bị Cơ quan điều tra kê biên. Tính đến

ngày 02/02/2023, bị cáo T.T.H còn nợ Ngân hàng tiền gốc là 730.000.000 đồng và

tiền lãi là 157.213.296 đồng. Nay bà yêu cầu kê biên 02 thửa đất nêu trên để đảm

bảo thi hành án, khi thi hành án thì ưu tiên cho Ngân hàng thu hồi nợ trước đối với

Hợp đồng tín dụng số 7104-LAV-2020XXXXX ngày 09/6/2020.

– Đại diện gia đình bị cáo ông T.V.P trình bày: Ông có nộp cho Cơ quan điều

tra số tiền 20.000.000 đồng để khắc phục hậu quả do bị cáo T.T.H gây ra, ông cũng

có nộp nhiều Huân chương, bằng khen, giấy khen của ông để làm tình tiết giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo T.T.H.16

– Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre giữ quyền công tố luận tội và

tranh luận: khẳng định Bản cáo trạng số: 50/CT-VKSBT-P1 ngày 10/11/2022 của

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre truy tố bị cáo T.T.H về “Tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản”; “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “Tội sử dụng tài liệu

giả của cơ quan, tổ chức” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội

đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo T.T.H phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a

khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự; “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”

theo điểm a khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự và “Tội sử dụng tài liệu giả của

cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự;

a) Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm

g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt T.T.H từ 13 năm đến 15

năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g

khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt T.T.H từ 03 năm đến 04

năm tù về “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g

khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt T.T.H từ 03 năm đến 04

năm tù về “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt của cả 03 tội đối

với bị cáo T.T.H;

b) Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 468,

584, 589 của Bộ luật Dân sự 2015:

– Buộc bị cáo T.T.H trả cho bà Nguyễn Thi Loan số tiền 7.670.050.000 đồng.

– Buộc bị cáo T.T.H trả cho bà N.T.P số tiền 576.600.000 đồng.

c/ Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: áp dụng Điều 48 của Bộ luật

Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Tiếp tục kê biên để đảm bảo thi hành án đối với các thửa đất gồm: thửa số

XX, tờ bản đồ XX, diện tích XXXX,1m2 cùng tài sản gắn liền trên đất tọa lạc xã

T.L, huyên B.Đ, người sử dụng đất là bị cáo T.T.H; thửa số XXX, tờ bản đồ số X,

diện tích 3.XXX,4 m2; thửa số XXX, tờ bản đồ X, diện tích XXX,9 m2; thửa XXX,

tờ bản đồ số X, diện tích XXX m2; thửa XXX, tờ bản đồ số X, diện tích 2.XXX,9

m2 do T.C.Đ đứng tên sử dụng.

– Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Sam sung và

01 điện thoại di động hiệu Nkia.

– Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án: Số tiền 20.000.000 đồng (do ông

T.V.P nộp); 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 36XXXX, người sử

dụng đất là T.C.Đ, thửa đất XXX, tờ bản đồ số X tại xã V.Q.T, huyên B.Đ, tỉnh

Bến Tre; 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 36XXXX, người sử dụng17

đất là T.C.Đ, thửa đất XXX, tờ bản đồ số X tại xã V.Q.T, huyên B.Đ; tỉnh Bến Tre;

01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 36XXXX, người sử dụng đất là

T.C.Đ, thửa đất XXX, tờ bản đồ số X tại xã V.Q.T, huyên B.Đ, tỉnh Bến Tre.

– Bị cáo T.T.H, bị hại N.T.P, bị hại N.T.L, ông T.C.Đ, bà T.T.M.H, bà Trần

Ngọc Hạnh đều không tranh luận.

– Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại N.T.L phát biểu tranh

luận: không có ý kiến về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; đồng ý với yêu cầu

của bị hại Loan yêu cầu bị cáo trả số tiền 7.670.050.000 đồng, buộc ông Được liên

đới với bị cáo T.T.H trả nợ cho bà N.T.L.

– Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết mình làm như vậy là sai, lẽ ra bị cáo nên

chọn một cách giải quyết khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được

thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra

Công an tỉnh Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, Kiểm

sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự

thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa; bị

cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại về hành

vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Quá

trình chuẩn bị xét xử vụ án, bị cáo từ chối người bào chữa, người bào chữa có

Thông báo về việc chấp dứt việc bào chữa gửi cho Tòa án, Tòa án đã ra Thông báo

thu hồi và hủy bỏ Thông báo người bào chữa tham gia tố tụng, đồng thời có Công

văn đề nghị Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre cử người bào chữa cho bị cáo. Tại phiên

tòa bị cáo từ chối người bào chữa và yêu cầu Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ

án không có người bào chữa, Hội đồng xét xử đã xét xử vụ án không có người bào

chữa theo quy định tại Điều 76, Điều 291 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các

hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

đã thực hiện đều hợp pháp.