Giới hạn quyền và thời hạn bảo hộ

Luật sư quận Tân Bình tư vấn hổ trợ doanh nghiệp trong quá trình phát triển của quý công ty

a) Giới hạn quyền tác giả:

Giới hạn quyền tác giả là các trường hợp pháp luật cho phép người sử dụng tác phẩm không phải xin phép, không phải trả thù lao cho tác giả nhằm mục đích nghiên cứu, học tập của công chúng. Về phương diện pháp lý, quyền và nghĩa vụ của tác giả phải song hành nhau, do đó giới hạn quyền tác giả chính là nghĩa vụ của tác giả đối với xã hội, đối với đất nước1. Quyền tài sản của tác giả thông thường bị giới hạn trên hai lĩnh vực sao chép và trình diễn. Tuy nhiên, nguyên tắc chung là tổ chức, cá nhân chỉ được phép sao chép hay trình diễn tác phẩm với điều kiện không nhằm mục đích kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến việc khai thác tác phẩm và không xâm hại đến các quyền lợi khác của tác giả hay chủ sở hữu quyền tác giả. Người sử dụng phải có nghĩa vụ thông tin về tên tác giả, nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

b) Thời hạn bảo hộ quyền tác giả:

Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, trong đó quyền nhân thân là một quyền dân sự gắn liền với cá nhân tác giả và không thể chuyển nhượng, do đó quyền nhân thân của tác giả đối với tác phẩm không bị giới hạn về thời hiệu và được pháp luật bảo hộ không hạn chế về mặt thời gian. Thời hạn bảo hộ đối với quyền tài sản và quyền công bố hay cho phép người khác công bố tác phẩm được quy định tại Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ 20052.

1. Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định: “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm: a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân; b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu; d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại; đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu; e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất cứ hình thức nào; g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy; h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó; i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị; k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng”.
2. Khoản 2 Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định: “a) Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này; b) Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết; c) Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả”.