Luật sư quận Tân Bình– Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa cho bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố trong các vụ án hình sự
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Hành vi 01:
Đỗ Thị Tuyết N là chủ sử dụng hợp pháp của 02 thửa đất: Thửa số 81,
diện tích 1004m2
, loại đất ONT và thửa đất số 90, diện tích 2.075m2
, loại đất
HNK, cùng tờ bản đồ số 41, ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An (Gọi tắt là thửa
đất số 81 và 90).
Ngày 11-8-2017, bị cáo N với bị hại Lê Văn Đ ký kết Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất (Viết tắt HĐCNQSDĐ) đối với 02 thửa đất số 81 và
90, Hợp đồng số 4143 (Viết tắt Hợp đồng số 4143), quyển số 5/TP/CC/HĐGD
do Văn phòng Công chứng (Viết tắt VPCC) Lê Ngọc M3 chứng nhận. Giá
chuyển nhượng thực tế là 500.000.000 đồng, giá ghi theo hợp đồng là
100.000.000 đồng (đã giao nhận tiền xong). Cùng ngày, bị cáo N cùng ông Đ
đến Trung tâm Hành chính công huyện Đ để nộp hồ sơ đăng ký biến động đất
sang cho ông Đ đứng tên. Ông Đ giao “Giấy hẹn trả kết quả” cho bị cáo N giữ
để nhận hồ sơ giúp.
Ngày 24-8-2017, Trung tâm Hành chính công huyện Đ trả lại toàn bộ hồ
sơ cho bị cáo N và yêu cầu bổ sung Bản trích lục bản đồ địa chính của 02 thửa
đất trên. Sau khi nhận lại hồ sơ, bị cáo N không bổ sung Bản trích lục bản đồ địa
chính. Bị cáo N muốn chuyển nhượng 02 thửa đất này cho người khác, nên bàn
bạc với bị cáo Dương Quốc T làm “Hợp đồng ủy quyền” giả từ ông Lê Văn Đ
qua cho bị cáo T để làm thủ tục hủy Hợp đồng số 4143. Bị cáo T điện thoại cho
L (không rõ nhân thân, lai lịch) thuê L làm “Hợp đồng ủy quyền” giả, nội dung:
Lê Văn Đ ủy quyền cho Dương Quốc T được ký hợp đồng hủy bỏ Hợp đồng số
4143.
Sau khi có được “Hợp đồng ủy quyền” giả, ngày 27-9-2017 các bị cáo N
và T đến VPCC Lê Ngọc M3 ký Hợp đồng hủy bỏ HĐCNQSDĐ số công chứng
5325, quyển số: 06TP/CC/HĐGD ngày 27-9-2017, trong đó: bị cáo T ký với tư
cách là người được ông Lê Văn Đ ủy quyền, do Công chứng viên Nguyễn Lê H4
ký thủ tục hủy bỏ Hợp đồng số 4143 (Hợp đồng ủy quyền giả có chữ ký của ông
Võ Anh T8 – Phó Chủ tịch phường và mẫu dấu của U, Quận F, Thành phố Hồ
Chí Minh, theo Kết luận giám định tất cả là giả).
Sau khi ký hủy bỏ Hợp đồng số 4143, các bị cáo N và T thỏa thuận
chuyển nhượng 02 thửa đất số 81 và 90 cho ông Quang Tôn Y1 với giá
1.800.000.000 đồng. Khi ông Y1 đi xem đất, các bị cáo N và T chỉ đất không
đúng vị trí của thửa đất như trong GCNQSDĐ. Ông Y1 không biết và đặt cọc
trước cho bị cáo N số tiền 200.000.000 đồng. Ngày 05-02-2018, tại VPCCC Lê
Ngọc M3, bị cáo N ký Hợp đồng số 4173, quyển số 02/TP/CC- SCC/HĐGD để
chuyển nhượng đất cho ông Y1. Ông Y1 trả cho bị cáo N hết số tiền còn lại.
Trong đó, bị cáo N chỉ lấy số tiền 600.000.00 đồng, số tiền còn lại
1.200.000.000 đồng giao cho bị cáo T. Bị cáo T chia cho những người cò đất ở
huyện H và huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh 1.100.000.000 đồng, bị cáo T còn
lại 100.000.000 đồng. Sau khi được đứng tên GCNQSDĐ đối với 02 thửa đất
trên, ông Y1 kiểm tra lại đất, phát hiện thửa đất lúc xem khi nhận chuyển
chuyển nhượng với 02 thửa đất được đứng tên trong GCNQSDĐ là không đúng
vị trí đất. Ngày 01-4-2019, ông Y1 chuyển nhượng lại 02 thửa đất trên cho ông
Lê Hoàng N2, với giá 1.100.000.000 đồng, hợp đồng được ký kết tại VPCC Lê
Ngọc M3. Ngày 18-6-2019, ông Lê Hoàng N2 tiếp tục chuyển nhượng lại 02
thửa đất trên cho ông Nguyễn Tuấn K, hợp đồng được ký kết tại VPCC Lê Ngọc
M3. Sau đó, ông K thế chấp tại Ngân hàng TMCP Đ5 (S2) Chi nhánh T11 (Việc
tranh chấp nợ vay này đã được Tòa án hòa giải thành và ra Quyết định công
nhận thỏa thuận).
Hành vi 02:
Ông Nguyễn Văn C được Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp
GCNQSDĐ số L 056179, đối với thửa đất số 279, tờ bản đồ số 32, diện tích
1.452m2
(Sau khi chuyển nhượng cho người khác, diện tích đất còn lại trong
GCNQSDĐ là 927m2
) tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An. Ông C bị mất
GCNQSDĐ và đã đến Ủy ban nhân dân xã Đ cớ mất. Đất thực tế gia đình ông C
vẫn là người trực tiếp quản lý sử dụng đất (Có nhà ở và đang sinh sống trên đất).
Khoảng cuối năm 2014, bị cáo T có gặp một người tên L (không rõ lai
lịch) tại Công viên H, huyện Đ, T hỏi L “Có bằng khoán nào (tức là
GCNQSDĐ) để đem cầm Ngân hàng kiếm tiền không”, L đưa cho T 01 bản phô
tô của GCNQSDĐ số L056179, do ông Nguyễn Văn C đứng tên (do chưa làm
việc được L nên không biết vì sao L có Giấy CNQSDĐ trên). L nói, sẽ làm giấy
tờ giả rồi sang tên hợp pháp cho bị cáo T với chi phí là 45.000.000 đồng, bị cáo
T biết giả nhưng vẫn đồng ý. L đã làm giả 01 Hợp đồng ủy quyền từ ông
Nguyễn Văn C cho ông Nguyễn Văn N1 (Hợp đồng giả có chữ ký giả của Công
chứng viên Hoàng Thị Kim T9 và giả con dấu đóng của Phòng C3, Thành phố
Hồ Chí Minh, có số công chứng 46925, quyển số 9 TP/CC-SCC/HĐUQ ngày
04-12-2014 và ghi địa chỉ thửa đất trên ở ấp B, Đ, huyện Đ).
Ngày 06-4-2015, bị cáo T cùng 02 người thanh niên (bạn của L, không
biết nhân thân lai lịch) đến VPCC Đức Huệ, thuộc thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh
Long An cùng T ký HĐCNQSDĐ từ ông N1 sang cho bị cáo T. Bị cáo T trả cho
những người này 30.000.000 đồng và hẹn sau khi đăng ký biến động đất sẽ trả
thêm 15.000.000 đồng. Ngày 10-4-2015, bị cáo T được đăng ký biến động đứng
tên đất và đã trả hết số tiền còn lại 15.000.000 đồng.
Sau khi có GCNQSDĐ do ông Nguyễn Văn C đứng tên và được chỉnh lý
biến động sang cho bị cáo T. Ngày 15-4-2015 và ngày 14-9-2016, bị cáo T 02
lần thế chấp GCNQSDĐ nêu trên cho Ngân hàng C2 – Chi nhánh L1 – Phòng G
để vay tiền. Mỗi kỳ vay đến đáo hạn, bị cáo T trả vốn và lãi đầy đủ cho Ngân
hàng.
Sau đó, bị cáo T tiếp tục thế chấp GCNQSDĐ trên để vay tiền của người
có tên là V (tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng không rõ nhân thân lai lịch) với
số tiền 300.000.000 đồng. Đến hạn trả tiền, bị cáo T không có tiền để trả cho V.
T điện thoại cho ông Trần Phước H2, nói với ông H2 mới mua được
GCNQSDĐ tiếp giáp đường, nên bảo ông H2 nghiên cứu tìm người cầm giùm
với giá 600.000.000 đồng để lấy tiền trả nợ cho V, ông H2 đồng ý. Bị cáo Trung
trực tiếp chỉ dẫn ông H2 đến xem thửa đất có tiếp giáp đường, có diện tích giống
với thửa đất trong GCNQSDĐ tại ấp B, xã Đ, huyện Đ, nhằm để khi có người
đến xem thì ông H2 sẽ dẫn đi xem đất. Sau đó, ông H2 điện cho ông Lâm Phúc
T5 đến Văn phòng bất động sản của bị cáo T tại khu vực Vòng xoay xã H,
huyện Đ, ông H2 đưa cho ông T5 bản phô tô GCNQSDĐ nêu trên và nói tìm
người cầm 600.000.000 đồng, rồi ông H2 chỉ dẫn ông T5 xem đất tại ấp B, xã Đ,
huyện Đ.
Sau khi xem đất, ông T5 về huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh gặp ông
Võ Thanh P1 đưa bản phô tô GCNQSDĐ trên cho ông P1 xem và nói cầm
600.000.000 đồng, ông P1 đồng ý với lãi suất 06%/tháng. Ông P1 bảo ông T5
dẫn đi xem đất, ông T5 đồng ý dẫn ông P1 đến xem thửa đất số 17, tại ấp B, xã
Đ, huyện Đ. Khi ông P1 đồng ý cầm GCNQSDĐ trên, ông T5 điện thoại cho
ông H2 biết. Ông H2 thông báo lại cho bị cáo T và hẹn sáng ngày 31-7-2018 gặp
nhau tại VPCC Lê Ngọc M3 để làm thủ tục cầm cố.
Bị cáo T lo sợ sau này ông P1 phát hiện bị lừa, nên bị cáo T điện cho ông
Lê Quang T4 đi qua thị trấn H gặp bị cáo T. Khi gặp ông T4, bị cáo T nói “Bây
giờ có miếng đất cần cầm cố, mày đứng ra nhận ký ủy quyền từ anh, sau đó ký
ủy quyền để cầm cố đất thì sẽ được nhận 10.000.000 đồng”. Do lúc đang cần
tiền nuôi mẹ, nên ông T4 đồng ý. Bị cáo T bảo ông T4 sáng ngày 31-7-2018 qua
VPCC Lê Ngọc M3 ký ủy quyền. Khoảng 09 giờ ngày 31-7-2018, Dương Quốc
T, Lê Quang T4, Trần Phước H2, Lâm Phúc T5 và Võ Thanh P1 gặp nhau tại
VPCC Lê Ngọc M3. Vợ chồng bị cáo T ký Hợp đồng ủy quyền đất theo
GCNQSDĐ từ bị cáo T qua ông T4, được VPCC Lê Ngọc M3 chứng nhận hợp
đồng số 12624, quyển số 07/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 31-7-2018. Bị cáo T bảo
ông T4 ký Hợp đồng ủy quyền GCNQSDĐ sang cho ông Võ Thanh P1 được
VPCC Công chứng Lê Ngọc M3 chứng nhận Hợp đồng số 12630, quyển sổ
07/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 31-7-2018. Sau khi ký xong thủ tục ủy quyền, ông
P1 đưa số tiền 564.000.000 đồng (do lấy lãi trước 36.000.000 đồng), ông T5 và
ông H2 lấy mỗi người 12.000.000 đồng tiền môi giới, ông T4 nhận 10.000.000
đồng. Số tiền còn lại, bị cáo T cho những người cò đất ở H, Thành phố Hồ Chí
Minh và B (không rõ họ tên) 60.000.000 đồng, trả nợ cho ông V 400.000.000
đồng và còn lại tiêu xài cá nhân. Hơn 01 tháng sau, ông P1 không thấy đóng lãi
suất, nên điện thoại cho ông T5, ông T5 đến gặp ông P1 và nói: Bên vay tiền
đang kẹt, cần thêm 100.000.000 đồng nữa, ông P1 đồng ý, coi như cầm đất
700.000.000 đồng. Khi nhận tiền, ông P1 giao ông T5 58.000.000đ (trừ
42.000.000 đồng tiền lãi). Ông T5 khai lấy số tiền nhận từ ông P1 đưa cho ông
H2, nhưng ông H2 không thừa nhận. Ông P1 không yêu cầu gì về số tiền
100.000.000 đồng này, ông P1 tự giải quyết với ông T5.
Tương tự, đến tháng thứ hai đóng lãi cũng không có người đóng tiền lãi
suất. Ông P1 điện thoại cho ông T5, ông T5 nói: Chắc bên kia không đóng lãi và
chấp nhận giao đất. Ông P1 muốn bán thửa đất trên cho 01 người có tên là S
muốn mua và bảo ông P1 cho xem giấy tờ đất. Sau khi xem giấy tờ đất, ông S
đồng ý mua, nhưng phải có trích lục bản đồ địa chính thửa đất. Ông P1 điện
thoại bảo, ông T5 đi trích lục bản đồ. Ông T5 điện thoại cho bị cáo T, T nói làm
tiền công 2.000.000 đồng, ông T5 điện cho ông P1 nói làm trích lục tiền công
3.000.000 đồng, ông P1 giao cho ông T5 3.000.000 đồng. Bị cáo T nhờ L làm
giả trích lục bản đồ thửa đất và thêm vị đất giáp với đường lộ vào bản đồ, sau đó
ông T5 đến gặp T nhận bản trích lục.
Khi có trích lục bản đồ của thửa đất, ông P1 bán đất cho ông S với giá
800.000.000 đồng, ông S đặt cọc trước 50.000.000 đồng và hẹn cùng đến VPCC
Công chứng L2 ký kết hợp hợp đồng chuyển nhượng. Sau khi đặt cọc, ông S bán
lại thửa đất cho ông Hà Thuận P3 với giá 1.400.000.000 đồng (ông S thu lợi
600.000.000 đồng). Ông P3 đưa cho ông P1 1.400.000.000 đồng, ông P1 đưa lại
cho ông S 650.000.000 đồng và giữ lại 750.000.000 đồng. Sau đó, ông P3 đến
VPCC phát hiện GCNQSDĐ và trích lục bản đồ thửa đất trên là giả, nên ông P1
đã trả lại cho ông P3 số tiền 1.400.000.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 76/CT-VKSLA-P2 ngày 07-11-2023 của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Long An, đã truy tố: Bị cáo Dương Quốc T về các tội “Lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và Sử dụng tài
liệu giả của cơ quan tổ chức” quy định tại khoản 4 Điều 174; khoản 4 Điều 175
và điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Đỗ Thị Tuyết N về tội
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ
chức” quy định tại khoản 4 Điều 175 và điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình
sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
– Bị cáo Dương Quốc T khai nhận các hành vi phạm tội như Cáo trạng của
Viện kiểm sát đã truy tố.
– Bị cáo Đỗ Thị Tuyết N trình bày: Bị cáo không có chuyển nhượng 02
thửa đất 81 và 90 cho ông Đ, mà chỉ là thế chấp cho ông Đ để vay số tiền
500.000.000 đồng. Ông Đ đã giao cho bị cáo nhận đủ số tiền 500.000.000 đồng.
Hai bên thỏa thuận, ký hợp đồng chuyển nhượng tại VPCC đối với hai thửa đất
trên, giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng là 100.000.000 đồng để ông Đ đứng
tên đất, rồi sau đó ông Đ thế chấp vay Ngân hàng, bị cáo N chịu trách nhiệm trả
tiền vốn vay cùng lãi suất trên số tiền ông Đ vay cho Ngân hàng. Nhưng sau đó,
giữa bị cáo với ông Đ xảy ra mâu thuẫn, nên bị cáo tìm người bán 02 thửa đất
này để lấy tiền trả lại cho ông Đ. Bị cáo N gặp bị cáo T bàn bạc với nhau như
Cáo trạng nêu. Bị cáo N xác định: Việc bị cáo khai tại phiên tòa là vay tiền của
ông Đ, không phải là chuyển nhượng đất, ngoài lời khai thì bị cáo không có tài
liệu chứng cứ gì để chứng minh; giá trị thực của 02 thửa đất số 81 và 90 thời
điểm ký chuyển nhượng cũng tương đương 500.000.000 đồng. Cáo trạng của
Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” là không oan cho bị cáo.
Ngoài ra, các bị cáo đều khai nhận: Trong quá trình điều tra và truy tố vụ
án, các bị cáo tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội, không bị bức cung, nhục
hình buộc để khai nhận hành vi phạm tội và cũng không có khiếu nại gì về hành
vi hay quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng trong giai đoạn điều tra và truy tố vụ án.
– Người bị hại ông Lê Văn Đ trình bày: Tại phiên tòa bị cáo N cho rằng,
ông cho bị cáo vay tiền, rồi ký hợp đồng chuyển nhuợng 02 thửa đất số 81 và 90
là không đúng, mà là chuyển nhượng đất với nhau. Giá chuyển nhượng thực tế
là 500.000.000 đồng, ông Đ đã trả đủ tiền cho bị cáo N khi ký hợp đồng, còn
việc Hợp đồng ghi 100.000.000 đồng là nhằm để giảm thuế. Việc ông Đ giao
cho bị cáo N giữ và nhận hồ sơ giúp là khi thỏa thuận chuyển nhượng đất, bị cáo
N chịu tất cả các thuế và phí nên giao cho bị cáo N giữ biên nhận để nộp thuế
nhận giấy đất giúp ông Đ. Về trách nhiệm dân sự, ông Đ yêu cầu: tuyên hủy các
hợp đồng chuyển nhượng hai thửa đất số 81 và 90 từ bị cáo N sang cho ông Y1,
cũng như hợp đồng từ ông Y1 cho những người sau này, để trả lại quyền sử
dụng của 02 thửa đất cho ông Đ; nếu không được chấp nhận, thì yêu cầu bị cáo
N trả lại số tiền bị chiếm đoạt là 500.000.000 đồng. Về trách nhiệm hình sự, yêu
cầu xét xử các bị cáo theo quy định của pháp luật.
– Người bị hại ông Võ Thanh P1 trình bày: Về trách nhiệm dân sự yêu cầu
bị cáo T trả lại số tiền 564.000.000 đồng. Đối với số tiền 100.000.000 đồng còn
lại ông P1 đưa cho Lâm Phúc T5 không yêu cầu xem xét. Về trách nhiệm hình
sự, yêu cầu xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.
– Về trách nhiệm dân sự các bị cáo T và N đồng ý hoàn trả lại cho người
bị hại ông Đ2 và ông P1 như yêu cầu.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Bé H1 trình bày: Bà
H1 với bị cáo T là vợ chồng. Ngày 31-7-2018, bà Bé H1 có đến VPCC Lê Ngọc
M3 để cùng bị cáo T ký Hợp đồng ủy quyền đất. Còn nội dung vụ việc như thế
nào thì bà Bé H1 không biết.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Quang T4 trình bày:
Trước đó, bị cáo T có nhờ ông T4 đứng ra nhận ủy quyền đất từ bị cáo T, để bị
cáo T vay tiền của người khác và sẽ trả công cho ông T4 10.000.000 đồng. Do
hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên ông T4 nhận giúp bị cáo T và không biết mục
đích của bị cáo T là nhằm để chiếm đoạt tiền của người khác. Ngày 31-7-2018,
ông có đến VPCC Lê Ngọc M3 để ký các thủ tục nhận ủy quyền và ủy quyền đất
cho ông P1 rồi sau đó được trả số tiền công là 10.000.000 đồng.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn C trình bày:
Năm 1997, ông C được UBND huyện Đ, tỉnh Long An cấp GCNQSDĐ số
056179 để đứng tên thửa đất số 279, diện tích 1.452m2
, loại đất thổ, tờ bản đồ số
32, xã Đ, huyện Đ và đến năm 2004 đã chuyển nhượng cho người khác một
phần với diện tích là 525m2
. Do thửa đất bị sai về thông tin, nên ông C có nhờ
người khác đi đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục giúp để chỉnh
lý lại cho đúng với thực tế sử dụng đất, nhưng lại làm mất luôn GCNQSDĐ của
ông C. Ông C có đến UBND xã Đ để cớ mất. Trên đất có nhà ở của gia đình ông
C cho đến nay. Sau này, ông C hay tin có người đứng tên đất của ông, ông
không có chuyển nhượng đất này cho ai hết, yêu cầu xử lý những người này
9
theo quy định của pháp luật. Ông C yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông C được
quyền đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp lại GCNQSDĐ.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Kim M2 trình bày:
Ngày 26-8-2018, bà M2 có cho bị cáo N vay số tiền 500.000.000 đồng và hai
bên có đến VPCC ký kết Hợp đồng vay tài sản. Bị cáo N có thế chấp cho bà M2
giữ bản chính của GCNQSDĐ do ông Nguyễn Văn Đ3 đứng tên và có Hợp
đồng ủy quyền từ ông Đ3 cho bị cáo N. Đến nay, bị cáo N không trả lại tiền vay
cho bà như thỏa thuận. Bà M2 có tố cáo hành vi của bị cáo N tại Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an tỉnh L. Trong vụ án này, bà M2 yêu cầu Tòa án xem xét
buộc bị cáo N trả lại tiền vốn vay và tiền lãi suất cho bà M2.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Lê H4 do ông
Nguyễn Hoàng P2 đại diện trình bày: Thời điểm năm 2017, ông H4 là Công
chứng viên của VPCC Lê Ngọc M3 và có chứng nhận Hợp đồng hủy bỏ Hợp
đồng số 4143 giữa bị cáo N với bị cáo T nhận ủy quyền từ ông Lê Văn Đ trên cơ
sở các tài liệu các bên yêu cầu công chứng cung cấp. Trong đó, có văn bản ủy
quyền từ ông Đ cho bị cáo T thực hiện. Ông H4 không thể biết được đây là văn
bản ủy quyền giả.
Ông Dương Minh H5 và bà Đặng Thị T1 là người nộp tiền khắc phục hậu
quả thay cho các bị cáo T và N, không có yêu cầu gì liên quan đến số tiền đã
nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quanđiều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra,
truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu
nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về thẩm quyền xét xử của Tòa án: Trong vụ án này, các bị cáo bị Việnkiểm sát nhân dân tỉnh Long An truy tố về các tội có khung hình phạt tù từ 12
năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Đây là tội đặc biệt nghiêm trọng, nên vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, được pháp
luật quy định tại điểm a khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[3] Xét thấy, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòanhưng một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng
mặt không có lý do. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai, quá
trình điều tra phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ. Do đó, việc vắng mặt
này không gây trở ngại cho việc xét xử, căn cứ các Điều 292 và 293 Bộ luật Tố
tụng Hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[4] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:Xét, lời khai nhận của các bị cáo Dương Quốc T và Đỗ Thị Tuyết N tại
phiên tòa có một phần phù hợp với nhau, phù hợp với: Lời khai tại Cơ quan
13
Cảnh sát điều tra; lời khai của người bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan; người làm chứng; các Kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong
hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận rằng:
– Các bị cáo Dương Quốc T và Đỗ Thị Tuyết N là người đủ năng lực chịu
trách nhiệm hình sự.
– Đối với hành vi chiếm đoạt tài sản của ông Lê Văn Đ và “Sử dụng tài
liệu giả của cơ quan tổ chức” của các bị cáo Đỗ Thị Tuyết N và Dương Quốc T:
Bị cáo Đỗ Thị Tuyết N là chủ sử dụng hợp pháp của 02 thửa đất số 81 và 90.
Sau khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng 02 thửa đất số 81 và 90 cho ông Lê
Văn Đ được VPCC Lê Ngọc M3 chứng nhận hợp đồng và ông Đ đã thanh toán
đủ số tiền chuyển nhượng cho bị cáo N. Hồ sơ chình lý biến động cho ông Đ
dứng tên đất đã được Trung tâm Hành chính công huyện Đ tiếp nhận và có giấy
hẹn trả kết quả. Ông Đ giao giấy hẹn nhờ bị cáo N nhận giúp. Tuy nhiên, do hồ
sơ chưa đủ thủ tục ngày 24-8-2017, Trung tâm Hành chính công huyện Đ trả lại
toàn bộ hồ sơ cho ông Đ, do bị cáo N nhận thay và yêu cầu bổ sung bản trích lục
bản đồ địa chính của 02 thửa đất trên. Sau khi nhận lại hồ sơ, bị cáo N không bổ
sung thủ tục. Bị cáo N lại muốn tiếp tục chuyển nhượng 02 thửa đất này cho
người khác, nhưng không thể thực hiện được do trước đó đã ký kết hợp đồng với
ông Đ tại VPCC, nên đã bàn bạc với bị cáo Dương Quốc T và được bị cáo T
đồng ý và nhờ người làm giả “Giấy ủy quyền” từ ông Đ ủy quyền cho bị cáo T
được thay mặt ông Đ đến VPCC ký hủy bỏ Hợp đồng số 4143. Ngày 27-9-2017,
L2 chứng nhận Hợp đồng hủy bỏ HĐCNQSDĐ số công chứng 5325 để hủy bỏ
Hợp đồng số 4143 giữa bị cáo N với bị cáo T. Sau khi ký hủy bỏ Hợp đồng số
4143, các bị cáo N và T thỏa thuận chuyển nhượng hai thửa đất số 81 và 90 cho
ông Quang Tôn Y1 với giá là 1.800.000.000 đồng và hợp đồng được thực hiện
tại tại VPCCC L ngày 05-02-2018. Bị cáo N nhận số tiền 600.000.00 đồng, số
tiền còn lại 1.200.000.000 đồng giao cho bị cáo T.
Như vậy, hành vi như trên của các bị cáo N và T đã đủ yếu tố cấu thành
02 tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “sử dụng tài liệu giả của cơ
quan tổ chức”. Tài sản bị cáo N chiếm đoạt của ông Đ là 500.000.000 đồng là
tình tiết định khung hình phạt được quy định tại khoản 4 Điều 175 và điểm b
khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo N cùng Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng giữa bị
cáo với ông Đ phát sinh hợp đồng vay tài sản 500.000.000 đồng, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu nên bị cáo N không phạm tội
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và chỉ phạm tội “Sử dụng tài liệu giả
của cơ quan tổ chức” thuộc khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự là không có căn
cứ để chấp nhận.
– Đối với hành vi chiếm đoạt tài sản của ông Võ Thanh P1 và “Sử dụng tài
liệu giả của cơ quan tổ chức” của bị cáo Dương Quốc T: Bị cáo T biết rõ: Ngày
14
10-4-2015, Chi nhánh Văn phòng Đ4 tại huyện Đ, tỉnh Long An, chỉnh lý biến
động cho bị cáo T được đứng tên trên GCNQSDĐ số L 056179, đối với thửa đất
số 279, tờ bản đồ số 32, diện tích 1.452m2
, tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An của
ông Nguyễn Văn C đã được Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp năm
1997 là giấy thật, nhưng đã giả về thủ tục ủy quyền từ ông C cho ông Nguyễn
Văn N1 để ký kết hợp đồng chuyển nhượng với bị cáo T. Để có tiền trả nợ vay
cho ông V đã cho bị cáo vay số tiền 300.000.000 đồng và nhận thế chấp
GCNQSDĐ nêu trên đến hạn không có tiền trả và mục đích tiêu xài cá nhân. Bị
cáo T đã đưa ra thông tin gian dối làm cho ông P1 tin là thật, đó là chỉ cho ông
P1 xem đất không đúng với vị trí của thửa đất ghi trong GCNQSDĐ và nhờ
người nhận ủy quyền đất từ bị cáo và ủy quyền lại cho ông P1 để ông P1 cho bị
cáo vay số tiền 600.000.000 đồng, trừ tiền lãi suất của tháng đầu tiên còn lại
564.000.000 đồng để bị cáo chiếm đoạt. Sau đó, sợ ông P1 phát hiện, bị cáo đã
nhờ người khác làm giả trích lục bản đồ của thửa đất giao cho ông P1.
Như vậy, hành vi như trên của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành 02 tội “Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản” và “sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”. Tài sản bị
cáo T chiếm đoạt của ông P1 là 564.000.000 đồng là tình tiết định khung hình
phạt được quy định tại khoản 4 Điều 174 và điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật
Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Vai trò của các bị cáo đối với hành vi chiếm đoạt tài sản bị hại Lê Văn
Đ: Đây là vụ án mang tính chất đồng phạm cả về hành vi chiếm đoạt và sử dụng
tài liệu giả, nhưng thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Bị cáo N là người rủ
rê bị cáo T và là người hưởng lợi toàn bộ tài sản chiếm đoạt, bị cáo T với vai trò
là người giúp sức tích cực tạo điều kiện cho bị cáo N thực hiện tội phạm, nên
trách nhiệm hình sự của bị cáo N phải cao hơn bị cáo T.
[6] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là đặc biệt nguy hiểm cho xã
hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, xâm
phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo
vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương và còn gây hoang mang trong quần
chúng nhân dân về việc tài liệu của các cơ quan, tổ chức bị làm giả nhằm sử
dụng vào hành vi trái pháp luật. Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ của
hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy cần
phải có mức án tương xứng đối với từng bị cáo, nhằm đạt mục đích răn đe, giáo
dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét đến
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vai trò của từng bị cáo
khi quyết định hình phạt.
[8] Ngoài các hành vi phạm tội như trên, bị cáo T còn có các hành vichiếm đoạt tài sản khác như: Sử dụng GCNQSDĐ như trên của ông C (đã chỉnh
lý biến động cho bị cáo đứng tên giả về thủ tục) 02 lần thế chấp vay Ngân hàng
Cổ phần C2 – Chi nhánh L1 – Phòng G để vay tiền và thế chấp vay của ông V
(không rõ lai lịch nhân thân) số tiền 300.000.000 đồng. Mặc dù, bị cáo vay và đã
thanh toán xong tiền vay cho Ngân hàng và ông V, nhưng hành vi chiếm đoạt
của bị cáo đã hoàn thành. Tòa án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung, nhưng Viện kiểm
sát không xem xét trách nhiệm hình sự đối với các hành vi này của bị cáo T là
có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Căn cứ vào Điều 298 Bộ luật tố tụng Hình sự quy
định về giới hạn của việc xét xử quy định “Tòa án xét xử những bị cáo và những
hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ
án ra xét xử”. Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, nên kiến nghị Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tiếp tục xem xét trách nhiệm hình sự đối với
các hành vi trên của bị cáo T.
[9]. Đối với hành vi của những người khác trong vụ án: [9.1] Đối với Chi nhánh Văn phòng Đ4 tại huyện Đ đã thực hiện việcchỉnh lý nội dung biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ông
Nguyễn Văn C cho bị cáo T đứng tên trên cơ sơ do bị cáo T cung cấp đã được
các Văn phòng Công chứng chứng nhận, nên không thể phát hiện được đây là tài
liệu giả. Do đó, Chi nhánh Văn phòng Đ4 tại huyện Đ chỉnh lý biến động thông
tin trên GCNQSDĐ như trên cho bị cáo T là không có dấu hiệu của tội phạm.
Do đó, Viện kiểm sát không xem xét trách nhiệm hình sự là có căn cứ.
[9.2] Đối với Công chứng viên Nguyễn Lê H4 thuộc VPCC L không thểphát hiện được Giấy ủy quyền giả do các bị cáo T và N cung cấp khi chứng nhận
Hợp đồng hủy bỏ Hợp đồng số 4143, nên không có dấu hiệu của tội phạm. Do
đó, Viện kiểm sát không xem xét trách nhiệm hình sự là có căn cứ.
[9.3] Đối với Công chứng viên Nguyễn Văn H3 thuộc VPCC Đ không thểphát hiện được Hợp đồng ủy quyền giả (từ ông Nguyễn Văn C ủy quyền cho
ông Nguyễn Văn N1 có chứng nhận của Công chứng viên của VPCC số 4 Thành
phố Hồ Chí Minh) do nhóm người của bên có tên là Long cung cấp khi chứng
nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông C sang cho bị cáo T,
nên không có dấu hiệu của tội phạm. Do đó, Viện kiểm sát không xem xét trách
nhiệm hình sự là có căn cứ.
[9.4] Đối với ông Lê Quang T4 nhận ủy quyền từ bị cáo T và bà B1 Haitrên cơ sở GCNQSDĐ giả chỉnh biến động mang tên bị cáo T rồi tiếp tục ủy
quyền lại cho ông P1 theo yêu cầu của bị cáo T và được bị cáo T trả tiền công.
Ông T4 không biết trước được GCNQSDĐ giả, hành vi gian dối của bị cáo T,
nên không là đồng phạm. Do đó, Viện kiểm sát không xem xét trách nhiệm hình
sự là có căn cứ.
[9.5] Đối với bà Võ Thị Bé H1 là vợ của bị cáo T, có cùng bị cáo T đếnVPCC ký hợp đồng ủy quyền đất cho ông T4 trên cơ sở GCNQSDĐ giả chỉnh lý
biến động mang tên bị cáo T. Bà Bé H1 không biết trước được GCNQSDĐ giả,
hành vi gian dối của bị cáo T, không có hưởng lợi từ số tiền bị cáo T chiếm đoạt,
nên không là đồng phạm. Do đó, Viện kiểm sát không xem xét trách nhiệm hình
sự là có căn cứ.
[9.6] Đối với các ông Trần Phước H2 và Lâm Phúc T5 ban đầu là nhữngngười đứng ra tìm người nhận thế chấp giấy CNQSDĐ giúp bị cáo T và nhận
tiền môi giới mỗi người 12.000.000 đồng. Các ông H2 và T5 hoàn toàn không
biết trước được hành vi gian dối của bị cáo T, nên không là đồng phạm. Do đó,
Viện kiểm sát không xem xét trách nhiệm hình sự là có căn cứ. Tuy nhiên, đối
với hành vi ông T5 nhận thêm 58.000.000 đồng (100.000.000 đồng –
42.000.000 đồng tiền lãi suất) từ ông P1 là có dấu hiệu phạm tội chiếm đoạt tài
18
sản, Tòa án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung, nhưng Viện kiểm sát không xem xét
trách nhiệm hình sự đối với hành vi này của ông T5 là có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm. Mặc dù, tại phiên tòa ông P1 không yêu cầu xem xét. Căn cứ vào Điều
298 Bộ luật Tố tụng Hình sự, kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An
tiếp tục theo xét giải quyết theo thẩm quyền.
[9.7] Đối với ông Quang Tôn Y1 là người nhận chuyển nhượng 02 thửađất số 81 và 90 từ bị cáo N, không biết đây là tài sản do các bị cáo phạm tội mà
có, nên là giao dịch dân sự ngay tình. Mặc dù, khi nhận chuyển nhượng đất
không đúng vị trí với đất đã xem trước, nhưng sau đó ông Y1 biết được vẫn
chấp nhận và chuyển nhượng lại cho ông N2, ông N2 tiếp tục chuyển nhượng
cho ông K. Đây là giao dịch dân sự, nếu có phát sinh tranh chấp thì giải quyết
bằng một vụ án dân sự riêng.
[9.8] Đối với người có tên là L và người đóng giả ông Nguyễn Văn N1,quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra không xác định được nhân thân, lai
lịch. Do đó, tách ra để tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau là phù hợp.
[9.9] Đối với bà Phạm Thị Kim M2 tố cáo bị cáo N có hành vi chiếm đoạttài sản của bà M2 thông qua việc thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AN 793535, thửa đất số 734, tờ bản đồ số 20, diện tích 200m2
toạ lạc tại ấp L,
xã H, huyện Đ, tỉnh Long An do ông Nguyễn Văn Đ3 đứng tên để vay số tiền
500.000.000 đồng. Xét đây là giao dịch dân sự, nên Viện kiểm sát không xem
xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo N là có căn cứ. Nếu các bên không tự
thỏa thuận được với nhau, thì bà M2 có quyền khởi kiện tại Tòa án theo thủ tục
tố tụng dân sự, nên không xét đến.
[10] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các Điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật Dân sự năm
2015, xét:
[10.1] Đối với bị hại ông Võ Thanh P1 yêu cầu bị cáo T có trách nhiệmbồi thường lại số tiền bị chiếm đoạt là 564.000.000 đồng là có căn cứ, nên buộc
bị cáo T có trách nhiệm bồi thường. Tiếp tục tạm giữ số tiền 60.000.000 đồng
theo Biên lai thu số 0000015 ngày 24-11-2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Long An do ông Dương Minh H5 nộp thay cho bị cáo T để đảm bảo thi hành án.
[10.2] Đối với bị hại ông Lê Văn Đ: Yêu cầu hủy các hợp đồng chuyểnnhượng quyền sử dụng đất đối với các thửa đất số 81 và 90 từ bị cáo N sang cho
ông Y1, từ ông Y1 sang cho ông N2 và từ ông N2 sang cho ông K để trả lại
GCNQSDĐ cho ông Đ như nhận định tại mục [9.7] là không có căn cứ để chấp
nhận và tài sản bị cáo N chiếm đoạt của ông Đ trong vụ án này là số tiền
500.000.000 đồng. Do đó, buộc bị cáo N có trách nhiệm bồi thường cho ông Đ
số tiền 500.000.000 đồng. Ghi nhận bị cáo T tự nguyện bồi thường cho ông Đ số
tiền 30.000.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ các khoản tiền gồm: 30.000.000 đồng
theo Biên lai thu số 0000037 ngày 18-12-2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
19
Long An do bà Đặng Thị T1 nộp thay cho bị cáo N và 30.000.000 đồng theo
Biên lai thu số 0000041 ngày 25-12-2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long
An do ông Dương Minh H5 nộp thay cho bị cáo T, tất cả để đảm bảo thi hành án
cho ông Đ. Không chấp nhận đề nghị của Luật sư buộc VPCC và Công chứng
viên phải liên đới bồi thường cho ông Đ.
[10.3] Đối với ông Dương Minh H5 và bà Đặng Thị T1 là người nộp tiềnkhắc phục hậu quả thay cho các bị cáo T và N, tại phiên tòa ông H5 và bà T1
không có yêu cầu gì liên quan đến số tiền đã nộp, nên không xét đến.
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố:
Bị cáo Dương Quốc Trung p các tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ
chức”.
Bị cáo Đỗ Thị Tuyết N phạm các tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.
1. Về hình phạt đối với bị cáo Dương Quốc T:
1.1 Áp dụng: Khoản 4 Điều 175; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; khoản 1 Điều 54 và Điều 58 Bộ luật Hình sự
năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Dương Quốc T 09 (C1) năm tù, về tội “Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
1.2 Áp dụng: Khoản 4 Điều 174; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 38; Điều 50 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Dương Quốc T 08 (T10) năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản”.
1.3 Áp dụng: Điểm b khoản 3 Điều 341; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s
khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật
Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Dương Quốc T 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, về tội “Sử
dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.
Áp dụng: Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tổng hợp hình phạt của 03 tội, buộc bị cáo Dương Quốc T phải chấp hành hình
phạt chung là 20 (Hai mươi) năm 06 (S1) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị
bắt tạm giam 13-11-2021.
Áp dụng: Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo Dương Quốc T 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể
từ ngày tuyên án sơ thẩm 25-12-2023 để đảm bảo việc thi hành án.
2. Về hình phạt đối với bị cáo Đỗ Thị Tuyết N:
21
2.1 Áp dụng: Khoản 4 Điều 175; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều
51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; khoản 1 Điều 54 và Điều 58 Bộ luật Hình sự
năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Tuyết N 11 (Mười một) năm tù, về tội “Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
2.2 Áp dụng: Điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều
51; Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Tuyết N 03 (Ba) năm tù, về tội “Sử dụng tài liệu
giả của cơ quan tổ chức”.
Áp dụng: Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo Đỗ Thị Tuyết N phải chấp hành hình
phạt chung là 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam
08-12-2022.
Áp dụng: Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo Đỗ Thị Tuyết N 45 (Bốn mươi lăm) ngày
kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 25-12-2023 để đảm bảo việc thi hành án.
3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017. Các Điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật Dân sự năm
2015.
– Buộc bị cáo Dương Quốc T có trách nhiệm bồi thường cho ông Võ
Thanh P1 số tiền là 564.000.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 60.000.000 đồng
theo Biên lai thu số 0000015 ngày 24-11-2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Long An do ông Dương Minh H5 nộp thay cho bị cáo Dương Quốc T để đảm
bảo thi hành án cho ông Võ Thanh P1.
– Buộc bị cáo Đỗ Thị Tuyết N có trách nhiệm bồi thường cho ông Lê Văn
Đ số tiền 500.000.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ các khoản tiền gồm: 30.000.000
đồng theo Biên lai thu số 0000037 ngày 18-12-2023 của Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Long An do bà Đặng Thị T1 nộp thay cho bị cáo Đỗ Thị Tuyết N và
30.000.000 đồng theo Biên lai thu số 0000041 ngày 25-12-2023 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Long An do ông Dương Minh H5 nộp thay cho bị cáo
Dương Quốc T, để đảm bảo thi hành án cho ông Lê Văn Đ.
– Không chấp nhận yêu cầu tuyên hủy các hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối với các thửa đất số 81 và 90 cùng tờ bản đồ số 41, ấp B,
xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, giữa: Bị cáo Đỗ Thị Tuyết N với ông Quang Tôn
Y1, ông Quang Tôn Y1 với ông Lê Hoàng N2 và ông Lê Hoàng N2 với ông
Nguyễn Tấn K1 để trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn
Đ.
22
Tất cả các khoản tiền trên, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền trên,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106
Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Tịch thu lưu giữ theo hồ sơ vụ án gồm: 01 bản chính Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số L 056179 do Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp
năm 1997 cho ông Nguyễn Văn C đứng tên đối với thửa đất số 279, tờ bản đồ số
32, diện tích 1.452m2
(Sau khi chuyển nhượng cho người khác, diện tích đất còn
lại trong GCNQSDĐ là 927m2
) tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An, đã chỉnh lý
biến động cho bị cáo Dương Quốc T đứng tên ngày 10-4-2015; 01 Giấy ủy
quyền ngày 25-9-2017 từ ông Lê Văn Đ cho bị cáo Dương Quốc T; 01 Hợp
đồng ủy quyền ngày 04-12-2014 từ ông Nguyễn Văn C cho ông Nguyễn Văn
N1.
5. Kiến nghị UBND huyện Đ, tỉnh Long An ban hành quyết định hành
chính để thu hồi GCNQSDĐ trên theo quy định của pháp luật. Ông Nguyễn Văn
C có trách nhiệm liên hệ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục
cấp lại GCNQSDĐ đối với thửa đất số 279, tờ bản đồ số 32, xã Đ, huyện Đ, tỉnh
Long An theo quy định của pháp luật.
6. Về án phí: Căn cứ các Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Tòa án.
6.1. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc mỗi bị cáo Dương Quốc T và Đỗ Thị
Tuyết N phải nộp 200.000 đồng sung vào ngân sách Nhà nước.
6.2. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Dương Quốc T phải nộp
24.160.000 đồng và bị cáo Đỗ Thị Tuyết N phải nộp 21.600.000 đồng sung vào
ngân sách Nhà nước.
7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án; vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết hợp lệ bản án.
8. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi
hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành
án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự