Tranh chấp hợp đồng tín dụng, nội dung bất lợi cho người vay

Tranh chấp hợp đồng tín dụng, nội dung bất lợi cho người vay

Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trong vụ án Tranh chấp hợp đồng tín dụng

I. Nội dung vụ án:

Do quen biết ông Lê Vãn Mẹo (giám đốc Công ty TNHH Tân Hải) nên ông Lê Vãn Ba đồng ý bảo lãnh cho Công ty Tân Hải vay của VIB – Chi nhánh Quảng Ngãi số tiền 6.200.000.000 đồng (6,2 tỷ đồng) theo Hợp đồng tín dụng số 0023/HĐTD2-VIB413/10 ngày 06/5/2010.

Tài sản ông Ba dùng bảo lãnh là Quyền sử dụng đất tại thửa số 08, tờ bản đồ số 05, diện tích 250,6m* 1 2 tọa lạc tại phường Nguyễn Nghiêm, Tp. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi theo Hợp đồng thế chấp số 0023.01/HĐTC2-VIB413/10 ngày 06/10/2010.

Từ năm 2010 đến 2013, ngoài hợp đồng tín dụng nêu trên giữa Công ty Tân Hải và VIB ký kết với nhau 03 họp đồng tín dụng khác nhung trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty Tân Hải không có khả năng thanh toán nợ mặc dù VIB đã đôn đốc,.nhăc nhở. Do đó, VIB khởi kiện yêu cầu Công ty Tân Hải trả tổng số nợ của 04 họp đồng là 120,533.33 USD và 18.601.345.226 đồng. Trong đó, nợ gốc: 105,335.00 USD và 13.424.649.651 đồng; nợ lãi: 15,163.75 USD và 5.018.984.427; nợ lãi quá hạn: 34.58 USD và 157.711. Ngày 06/02/2014, TAND huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự sô 06/2014/QĐST-KDTM công nhận: Công ty Tân Hải đồng ý trả cho VIB – Chi nhánh; Quảng. Nggi tông ( cộng số tiền là 121,798.05 USD (Tương đương 2.572.374.816 đồng, tỷ giá quy đổi ngày 22/01/2014 thỉ 1USD=21.120 VNĐ) và 19.086.032.786 đồng. Tức là 21.658.407.602 đồng và phải tiếp tục trả tiền lãi trên số tiền chậrr^rả phát sinh kể từ ngày 23/01/2014 cho đên khi trả xong các khoản nợ. *

Về tài sản thế chấp: Trường hợp Công ty Tân Hải không trả được hết các khoản nợ nói trên thì toàn bộ tài sản the chap được xử lý tại giai đoạn Thi hành án đe đảm bảo trả toàn bộ các khoản nợ cho VIB, trong đó có tài sản của ông Lê Văn Ba nêu ở trên.

Sau khi quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên có hiệu lực thi hành, ông Lê Văn Ba có đơn đê nghị xem xét theo thủ tục tái thâm.

Ngày 19/6/2019, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nang ban hành Quyết định kháng nghị tái thẩm sổ 59/2019/QĐKNTT-VKS-DS và đã được ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nằng xét xử tái thấm chấp nhận kháng nghị, hủy quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên.

II. Vấn đề pháp lý của vụ án

Tại khoản 9 Điều 1 Hợp đồng tín dụng số 0035A/HĐTD2-VIB413/11 ngày 21/11/2011 ghi: “Sô tiên bên vay được nhận theo HĐ này đã bao gồm toàn bộ dư nợ theo Hợp đồng tín dụng sổ 0023/HĐTD2-VỈB4Ị3/10 ngày 06/5/2010”. Tại Giấy báo nợ ngày 22/11/2011 (do ông Lê Vãn Ba cung cấp kèm theo Đon đề nghị tải thám) thể hiện Công ty Tân Hải đã trả 3.429.762.215 đồng cho khoản vay theo Họp đồng tín dụng số 0023/HĐTD2- VIB413/10 ngày 06/5/2010.

Tại khoản 1 Điều 1 Họp đồng thế chấp số 0023.01/HĐTC2- VIB413/10 ngày 06/10/2010, ghi: “Bên thê châp đồng ý the chap tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dán sự đoi với VIB (Bên nhận the chấp), bao gom: tiền vay (nợ gốc), lãi vay, lãi quá hạn, chỉ phí xử lý tài sản thế chấp, các khoản phí khác theo Hợp đồng tín dụng sổ 0023/HĐTD2-VỈB413/10 ngày 06/5/2010 và các nghĩa vụ khác của Bên vay tại VIB được ký kết giữa hai bẽn trong khoảng thời gian từ ngày 05/10/2010 đến ngày 05/10/2015”.

Nghĩa vụ được bảo đảm theo họp đồng thể chấp thể hiện cụ thể là khoản tiền 6,2 tỷ đồng Công ty Tân Hải vay VIB theo Họp đồng tín dụng số 0023/HĐTD2- V1B413/10, còn việc ghi thêm nghĩa vụ bảo đảm “…các nghĩa vụ khác của Bên vay tại V1B được ký kết giữa hai bên trong khoảng thời gian từ ngày 05/10/2010 đến ngày 05/10/2015”, trong khi ông Ba luôn khẳng định ý chí của ông Ba là chi thẻ

chấp tài sản bảo lãnh khoản vay tại Hợp đồng tín dựng số 0023/HĐTD2-VIB413/10 là điều khoản quy định không rõ ràng.

Tại Điều 126 Bộ luật Dân sự 2005 về: Giải thích giao dịch dân sự dẫn chiếu đến Điều 409 (Giải thích hợp đông dân sự) quy định: “…8. Trong trường họp bên mạnh thế đưa vào nội dung bat lợi cho bèn yêu thê thì khi giải thích hợp đông phải theo hưóng có lợi cho bên yếu thể’’. Vì vậy, cân giải thích phạm vi ông Lê Vãn Ba thế chấp tài sản chỉ để bảo đàm khoản vay 6,2 tỷ đồng và lãi vay, lãi quá hạn, chi phí xử lý tài sản thể chấp, các khoản phí khác mà Công ty Tân Hải vay VIB theo Hợp đồng tín dụng số 0023/HDTD2-VIB413/10.

Công ty Tân Hải vay VIB nhiều lần theo 04 Họp đồng tín dụng và mỗi họp đong tín dụng the hiện khoản vay, thời hạn vay khác nhau, ông Lê Văn Ba chỉ thê chấp tài sản của mình bảo đảm khoản tiền Công ty Tân Hải vay VIB theo Họp đồng tín dụng số 0023/HĐTD2- VIB413/10 ngày 06/5/2010 và ngày 22/11/2011 đã tẩt toán xong. Lẽ ra, khi khởi kiện yêu cầu Công ty Tân Hải trả nợ thì VIB phải kê cụ the từng khoản vay, trả theo từng hợp đồng tín dụng, trên cơ sở này Tòa án mới có cơ sở xem xét số nợ còn lại được bảo lãnh theo hợp đồng thế châp nào, nhưng V1B chỉ cộng dồn tổng số tiền gốc cho vay là 105.335,00 USD và 13.424.649.651 đong, đã trả tính đến ngày 05/11/2013 được 45.140 USD và 325.350.349 đồng tiền gốc là chưa đủ cơ sở để Tòa án xem xét phạm vi bảo đảm theo nội dung các họp đồng thế chấp đúng theo quy định của pháp luật.

Mặt khác, tài sản bảo đảm cho khoản tiền Công ty Tân Hải vay V1B theo Hợp đồng tín dựng số 0035A/HĐTD2-VIB413/11 ngày 21/11/2011 và Họp đồng tín dụng số 0035B/HĐTD2-VIB413/11 ngày 21/11/2011 là quyền sử dụng 06 thửa đất (03 thửa tại KDC Động Lực 1/5, thị trân Châu o, huyện Bình Sơn và 03 thửa tại KDC Vườn Quang, xã Bĩnh Trung, huyện Bỉnh Sơn đứng tên ông Lê Vãn Mẹo và bà Nguyễn Thị Đường). Do đó, việc VĨB không yêu cầu Tòa án xử lý quyền sử dụng 06 thửa đất này đồng nghĩa với khoản tiền Công ty Tân Hải vay VIB theo Hợp đồng tín dụng số 0035A/HĐTD2-VIB413/11 ngày 21/11/2011 và Hợp đồng tín dụng số 0035B/HĐTD2-VỈB413/11 ngày 21/11/2011 không còn tài sản bảo đảm nhưng Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh công nhận hòa giải, chấp nhận cho VIB xử lý các tài sản thế chấp bảo lãnh cho các khoản vay khác để trả nợ cho khoản tiền vay không còn tài sản bảo đảm là không đúng quy định của pháp luật, vi phạm nguyên tắc hòa giải quy định tại điếm b khoản 2 Điều 180 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, ảnh hưởng quyền và lợi hợp pháp của chủ sở hữu các tài sản thể chấp bảo lãnh các khoản vay khác, đặc biệt là ông Lê Vãn Ba vì tài sản ông Ba thế chấp bảo đảm có giá trị lớn hơn nhiêu so với các tài sản bảo đảm còn lại (thời diêm 2013 các bên ước tính có giá trị 20.048.000.000 đong). 

Trên diện tích 250,6m2 đất mà ông Ba thế chấp đế bão lãnh cho Công ty Tân Hải vay có ngôi nhà cấp III (169,9m2) thuộc sỏ’ hữu của ông Lê Tài và bà Lê Thị Kha (Theo Giấy kê khai, đăng ký quyền sở hữu nhà do ông Lê Tài cung cáp, được UBND phường Nguyễn Nghiêm xác nhận ngày 18/10/2004). Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành thâm định tài sản bảo lãnh nên không phát hiện nhà trên đất là của ông Tài, bà Kha và không đưa vào tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm thủ tục tố tụng, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Việc bên mạnh the (VIB) ghi nội dung bất lợi, không rõ ràng vào Họp đồng thế chấp số 0023.01/HĐTC2-V1B413/10 ngày 06/10/2010 phải được giải thích “theo hướng có lợi cho bên yêu the” nhưng tại thời diêm hòa giải ông Lê Văn Ba không biết và việc TAND huyện Sơn Tịnh không phát hiện ông Lê Tài, bà Lê Thị Kha là chủ sở hữu nhà trên đất đe đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyên lợi, nghĩa vụ liên quan là tình tiết mói được phát hiện có thế làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án. Do đó, tại Quyết định tái thẩm số 01/2021/KDTM – TT của ủy ban thâm phán TAND cấp cao tại Đà Nang chấp nhận Quyết định kháng nghị tái thẩm số 59/2019/QĐKNTT-VKS-KDTM ngày 19/6/2019 của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nằng, hủy toàn bộ Quyết định công sự thoa thuận của các đương sự số 06/2014/QĐST- KDTM ngày 06/02/2014 của TAND huyện Sơn Tịnh, giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm xét xử lại theo quy định của pháp luật.148 đồng.