Tội đánh bạc, gá bạc, ghi lô đề

Tội đánh bạc

Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa bị can, bị cáo phạm tội đánh bạc

Điều 248.  Tội đánh bạc 

1. Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 249 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn;

c) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.

Định nghĩa: Đánh bạc là tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào.

Tội đánh bạc là tội phạm đã được quy định rất sớm ngay từ sau khi Nhà nước ta được thành lập (Sắc lệnh số 168-SL ngày 14-4-1948), nhằm mục đích chặn tay địch và những phần tử thuộc các giai cấp bóc lột lúc bấy giờ mới bị hạn chế về mặt bóc lột, chưa bị thủ tiêu, dùng cờ bạc vào những mục đích phá hoại, đầu độc, bóc lột nhân dân, làm cho một số người sao lãng nhiệm vụ cách mạng.

Qua từng thời kỳ cách mạng, đường lối xử lý đối với người phạm tội đánh bạc cũng thay đổi, nhưng các dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc vẫn không có gì thay đổi.

Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một điều luật (Điều 200). Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội đánh bạc tại Điều 248 (Điều 321 BLHS 2015), còn tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được quy định tại Điều 249 (Điều 322 BLHS 2015). Việc tách tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thành hai điều luật riêng là nhằm cá thể hoá trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội do yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.

Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu tạo từ khoản 1 Điều 200 Bộ luật hình sự năm 1985 và có sửa đổi, bổ sung như sau:

– Bổ sung tình tiết là yếu tố định tội, đó là: tiền hay hiện vật dùng để đánh bạc phải có giá trị lớn, nếu chưa có giá trị lớn thì người đánh bạc phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 249 của Bộ luật này (Điều 322 BLHS 2015) hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội đánh bạc.

Bổ sung các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt và được quy định tại điểm a và b khoản 2 của điều luật như: có tính chất chuyên nghiệp; tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn.

Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính quy định tại khoản 1 của điều luật, tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ từ một năm lên ba năm; hình phạt bổ sung được quy định trong cùng một điều luật và tăng mức phạt từ một triệu đến năm triệu lên từ ba triệu đến ba mươi triệu (khoản 1 Điều 321 BLHS 2015 phạt từ 20-100 triệu đồng); bỏ hình phạt tịch thu một phần tài sản mà Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định đối với tội phạm này.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm đánh bạc

Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.

Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự 1999 và 2015 thì người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này vì tội phạm này là tội phạm do cố ý và không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Nếu số tiền hoặc tài sản dùng để đánh bạc có giá trị không lớnthì người có hành vi hành đánh bạc phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc và hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạmthì mới là chủ thể của tội phạm này.

2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm đánh bạc

Cũng như đối với tội hành nghề mê tín, dị đoan, tội đánh bạc là tội xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội, vì tội đánh bạc cũng là một tệ nạn của xã hội.

3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm đánh bạc

a. Hành vi khách quan

Người phạm tội thực hiện hành vi đánh bạc bằng nhiều hình thức khác nhau. Nếu trước đây đánh bạc chủ yếu là bằng hình thức tổ tôm, xóc đĩa, bài tây thì bây giờ có rất nhiều hình thức đánh bạc như: chới số đề, cá độ bóng đá, chọi gà, cá độ đua ngựa, đua xe… thủ đoạn phạm tội cũng rất tinh vi.

Theo điều văn của điều luật thì người có hành vi đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật đều bị coi là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế không phải cứ tham gia trò chơi nào được thua bằng tiền hay hiện vật đều bị coi là hành vi phạm tội. Hiện nay các cơ quan, tổ chức có nhiều hình thức vui chơi giải trí có được thua bằng tiền hay hiện vật đều không bị coi là hành vi phạm tội đánh bạc như: chơi sổ xố, lô tô, casino…; các trò chơi này đựơc Nhà nước cho phép nên không coi là hành vi phạm tội. Cũng chính vì vậy, có ý kiến cho rằng Điều 248 và Điều 249 Bộ luật hình sự 1999 (Điều 321 và 322 BLHS 2015) cần được sử dụng theo hướng thêm cụm từ “trái phép” vào điều văn của điều luật. Ví dụ: “Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trái phép… hoặc người nào tham gia bất kỳ trò chơi nào được thua bằn tiền hay hiện vật trái phép…”. Ngược lại, có ý kiến cho rằng không cần phải quy định thuật ngữ trái phép, vì các trò chơi được thua bằng tiền hay hiện vật mà được Nhà nước cho phép thì không gọi là đánh bạc. Khi nói đến đánh bạc là đã bao hàm yếu tố trái phép rồi; không ai nói chơi sổ xố là đánh bạc cả. Tuy nhiên, đây chỉ là vấn đề học thuật còn thực tiễn xét xử không vướng mắc về vấn đề có được phép hay không được phép.

b. Hậu quả

Hậu quả của hành vi đánh bạc không phải là dấu hiệu bắt buộc và cũng không phải là yếu tố định khung hình phạt, mặc dù hành vi đánh bạc có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội như: do đánh bạc mà tan cửa nát nhà, do đánh bạc mà dẫn đến các hành vi phạm tội khác như trộm cắp, cướp giật, cướp, cưỡng đoạt, cố ý gây thương tích, giết người, gây rối trật tự công cộng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, cho vay lãi nặng, v.v.. Nhà làm luật không quy định hậu quả là yếu tố định tội hoặc yếu tố định khung hình phạt không phải vì không thấy trước được hậu quả do hành vi đánh bạc gây ra cho xã hội, mà hậu quả do hành vi đánh bạc gây ra hầu hết đã cấu thành tội phạm độc lập, và tội phạm đó bao giờ cũng nguy hiểm hơn tội đánh bạc. Do đó, nếu hành vi đánh bạc mà dẫn đến những hành vi phạm tội khác thì người phạm tội còn bị truy cứu về các tội phạm tương ứng.

c. Các dấu hiệu khách quan khác

Đối với tội phạm này, nhà làm luật không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nhưng lại quy định giá trị tiền hay hiện vật dùng để đánh bạc là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.

Nếu hành vi đánh bạc, mà giá trị tiền hay hiện vật dùng vào việc đánh bạc có giá trị được xác định chưa phải là lớn và người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc và hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc hoặc chưa bị kết án về một trong các tội này, hoặc đã bị kết án về các tội phạm này nhưng đã được xoá án tích thì chưa bị coi là phạm tội đánh bạc.

Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, thì tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc có giá trị lớn là tiền hoặc hiện vật có giá trị từ một triệu đồng đến dưới mười triệu đồng bao gồm:

– Tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;

– Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng để đánh bạc;

– Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng để đánh bạc.

Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc.

Trường hợp một người đánh bạc với nhiều người khác nhau (như trường hợp chơi số đề), thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc đối với người đánh bạc với nhiều người là tổng số tiền, giá trị hiện vật mà họ và những người đánh bạc khác dùng để đánh bạc; còn đối với người tham gia đánh bạc với người này là tiền, giá trị hiện vật mà bản thân họ và người đó cùng dùng để đánh bạc20.

Mặc dù đã có hướng dẫn tương đối cụ thể, nhưng thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp Toà án xác định không thống nhất về số tiền, giá trị hiện vật trong trường hợp chơi số đề. Để áp dụng thống nhất đúng tình thần hướng dẫn tại Nghị quyết số 02 ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, theo chúng tôi thì:

– Đối với chủ đề và người “thư ký” đề, thì chỉ tính một lần số tiền hoặc giá trị hiện vật mà họ dùng vào việc chơi đề với nhiều người. Ví dụ: A là chủ đề chơi với 20 người, mỗi người chơi với A là 1.000.000 đồng với tỷ lệ 1/70, thì chỉ tính số tiền mà A dùng để chơi đề với 20 người là 70.000.000 đồng, và như vậy tổng số tiền dùng để đánh bạc trong vụ án này là 90.000.000 đồng (20 triệu đồng của 20 người và 70 triệu đồng của A).

– Trường hợp, chỉ bắt được người chơi đề, mà không xác định được chủ đề hoặc “thư ký” đề, thì số tiền hoặc giá trị tài sản dùng vào việc đánh bạc là số tiền hoặc tài sản mà người chơi đề dùng vào việc chơi đề. Ví dụ: Cơ quan điều tra bắt được B, khám người thấy trong túi B có một mảnh giấy (phơi đề) có ghi 3.000.000 đồng, nhưng Cơ quan điều tra không bắt được chủ đề hoặc “thư ký” đề, thì số tiền mà B dùng để đánh bạc được xác định là 3.000.000 đồng.

4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm đánh bạc

Người phạm tội thực hiện hành vi đánh bạc là do cố ý.