Lỡ tay giết người ở Bình Phước

Lỡ tay giết người ở Bình Phước

Luật sư quận Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa cho bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố trong các vụ án hình sự

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Khoảng 17 giờ ngày 27/12/2020, Lê Sơn B điều khiển xe mô tô nhãn

hiệu Yamaha – Sirius, biển số 93C1-083.80 đến Công ty TNHH N thuộc Khu

công nghiệp M – Hàn Quốc ở phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước để gặp vợ

là chị Trần Thị T đang làm công nhân trong Công ty. Bá dựng xe mô tô trước

cổng chính rồi đi vào gặp nhân viên bảo vệ đang trực là anh Nguyễn Thanh T1

để nhờ gọi chị T ra nói chuyện. Sau đó, anh T1 vào trong Công ty gọi chị T ra

nói chuyện với B trước cổng Công ty. Sau khi nói chuyện xong, chị T xin anh

T1 cho B dẫn xe mô tô vào trong Công ty để chờ chị T làm việc xong rồi cùng

về thì anh T1 không đồng ý vì quy định của Công ty không cho người ngoài

vào trong Công ty, nhưng B vẫn dẫn xe mô tô biển số 93C1-083.80 vào trong

cổng và dựng xe gần phòng (chốt) trực bảo vệ tại cổng Công ty thì anh T1

không cho, nên giữa anh T1 và B xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Anh T1 vào

phòng trực bảo vệ lấy 01 cây gậy bằng tre dài 78cm, đường kính 2,5cm, sơn

màu trắng – đỏ đi ra và dùng chân phải đạp 01 cái vào chắn bùn trước xe mô tô

của B, đồng thời cầm gậy tre đánh vào 01 cái vào vùng đầu và 01 cái vào vùng

ngực B thì được chị T và anh Nguyễn Minh Q là bảo vệ đang trực tại cổng

Công ty can ngăn. Thấy vậy, chị T đẩy Bá ra phía ngoài cổng Công ty, anh T1

cầm gậy bằng tre đi ra trước cổng Công ty định đánh B thì anh Q can ngăn. Do

bức xúc việc anh T1 dùng gậy đánh nên B đứng trước cổng Công ty tiếp tục to

tiếng với anh T1. Lúc này T1 cầm gậy bằng tre đi đến chỗ B thì anh Q can

ngăn giật cây gậy bằng tre trên tay của T1 cất vào phòng trực bảo vệ và dẫn xe

mô tô của B ra khỏi cổng Công ty, thì T1 tiếp tục đi vào phòng trực bảo vệ, lấy

01 cây gậy (dùi cui) bằng mũ cao su màu đen, dài khoảng 60cm, đường kính

khoảng 2,5cm, đi theo anh Q ra ngoài cổng để đánh B. Thấy T1 cầm dùi cui

chạy tới thì chị T ôm giữ, can ngăn đẩy T1 ra không để đánh B. Ngay lúc này

B dùng tay phải lấy dao nhọn dài khoảng 20cm ở trong túi quần bên phải đâm

liên tiếp khoảng 05 đến 06 nhát vào vùng bụng, ngực anh T1. Bị đâm, anh T1

ném gậy cao su vào bãi cỏ trước cổng rồi chạy vào trong cổng Công ty và được

mọi người đưa đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện C, còn B cầm theo dao rồi điều

khiển xe mô tô biển số 93C1 – 083.80 đi về thành phố Hồ Chí Minh trốn. Trên

đường đi, B vứt con dao đã đâm anh T1 ở ven đường nhưng không xác định

được địa điểm, cụ thể. Quá trình điều tra, Lê Sơn B đã thành khẩn khai nhận

toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

* Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 129/2021/GĐPY

ngày 24/03/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh B kết luận:

– Dấu hiệu chính qua giám định:

+ 02 vết thương vùng ngực trái (1,7 x 0,1) cm và (1,7 x 0,2) cm thấu

ngực, tràn khí, tràn máu màng phổi trái, đã phẫu thuật dẫn lưu màng phổi; vết

mổ (1,5 x 0,3) cm, sẹo lành;

+ 02 vết thương ngang rốn (1,5 x 0,2)cm và (1,5×0,2)cm, thấu bụng

thủng phúc mạc hố chậu trái, thủng đại tràng sigma, đã phẫu thuật đưa chỗ

thủng đại tràng ra hông trái làm hậu môn tạm, vết mổ giữa đường bụng trên

dưới rốn (1,7 x 0,5)cm, sẹo lành;

– Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với ông Nguyễn

Thanh T1 là 46%.

– Cơ chế hình thành vết thương:

+ 02 vết thương vùng ngực trái: Chiều nằm ngang hướng từ trước ra sau,

bờ sắc gọn khả năng do vật sắc gây ra.

+ 02 vết thương ngang rốn: Chiều nằm ngang, hướng từ trước ra sau, bờ

sắc gọn khả năng do vật sắc gây ra

* Tại bản Kết luận giám định số 72/2021/GĐ-KTS ngày 22/10/2021 của

Phòng K Công an tỉnh B kết luận:

– Không tìm thấy dấu hiệu cắt, ghép, chỉnh sửa nội dung trong tập tin

video gửi giám định ký hiệu A (đoạn camera thu giữ qua trích xuất camera tại

cổng Công ty N).

– Trích xuất được 43 hình ảnh về diễn biến vụ án

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:

– 01 (một) gậy tre dài 78cm, đường kính 2,5cm.

– Thu giữ qua khám nghiệm hiện trường 01 con dao, loại dao gấp bằng

kim loại, dài 24cm, lưỡi dao nhọn, dài 11,5cm, bản lưỡi dao rộng nhất 2,4cm,

sống lưỡi dao nhẵn.

– 01 con dao dài 20 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 10 cm, bản dao rộng

02cm, mũi dao nhọn, cách mũi dao 1,5 cm có 03 răng cưa, mỗi răng cưa cách

nhau 1,5cm

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thanh T1 yêu cầu bị cáo Lê

Sơn B phải bồi thường tổng số tiền 71.000.000 đồng.

Cáo trạng số 39/CT-VKS-P2 ngày 30/10/2023 của Viện kiểm sát nhân

dân tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Lê Sơn B phạm tội “Giết người” theo điểm

n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được thẩm tra công khai tại

phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra –

Công an tỉnh B, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, trong

quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo,

người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, không có ai có

ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan

tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và tại

phiên tòa bị cáo Lê Sơn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như

nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy

tố. Xét, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện

trường, biên bản thực nghiệm điều tra; phù hợp với lời khai của bị cáo, người

làm chứng về thời gian, địa điểm, thực hiện hành vi phạm tội và các tài liệu,

chứng cứ khác đã thu thập có tại hồ sơ vụ án được xét hỏi công khai tại phiên

tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: khoảng 17 giờ 20 phút ngày

27/12/2021, Lê Sơn B đến cổng chính Công ty TNHH N1 thuộc Khu công

nghiệp M – Hàn Quốc ở phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước để đón vợ là bà

Trần Thị T đang làm công nhân tại đây. Do giữa bị cáo và bị hại có bất đồng

về việc bị hại không cho phép bị cáo để xe và chờ vợ trong phạm vi khuôn

viên của Công ty nên giữa bị cáo và bị hại xảy ra cãi vã, xô sát. Bị hại T1 đã

dùng chân phải đạp 01 cái vào chắn bùn trước xe mô tô của B, đồng thời cầm

gậy tre đánh vào 01 cái vào vùng đầu và 01 cái vào vùng ngực B thì được chị

T và anh Nguyễn Minh Q là bảo vệ đang trực tại cổng Công ty can ngăn. Sau

khi bị cáo và xe máy của bị cáo đã được di chuyển ra khỏi cổng Công ty, giữa

bị cáo và bị hại vẫn tiếp tục cãi vã, xúc phạm lẫn nhau dẫn đến bị hại T1 tiếp

tục vào phòng bảo vệ lấy 01 cây gậy (dùi cui) bằng mũ cao su màu đen, dài

khoảng 60cm, đường kính khoảng 2,5cm đi ra ngoài cổng để đánh B. Mặc dù,

bị cáo và hại T1 đã được anh Nguyễn Minh Q cùng bà T can ngăn nhưng hai

bên vẫn tiếp tục cãi vã và tiến lại gần nhau. Khi hai bên ở khoảng cách gần

khoảng 01m, bị hại T1 đang cầm gậy giơ lên để đánh bị cáo thì được bà T nắm

tay cản lại, cùng lúc bị cáo rút dao trong túi và đâm vào vùng ngực, bụng của

bị hại T1 5-6 nhát. Hậu quả gây ra khiến bị hại bị 02 vết thương vùng ngực trái

(1,7 x 0,1) cm và (1,7 x 0,2)cm thấu ngực, tràn khí, tràn máu màng phổi trái;

02 vết thương ngang rốn (1,5 x 0,2)cm và (1,5×0,2)cm, thấu bụng thủng phúc

mạc hố chậu trái, thủng đại tràng sigma với tỉ lệ tổn thương cơ thể 46%.

[3] Xét thấy, căn cứ vào lời khai của các bên và hình ảnh diễn biến sự

việc được trích xuất từ camera thể hiện thì thấy rằng thời điểm bị cáo thực hiện

hành vi phạm xâm phạm tính mạng của ông T1 là xuất phát từ quá trình cãi vã,

xô sát lẫn nhau giữa bị cáo, bị hại và xuất phát từ hành vi cầm gậy (công cụ hỗ

trợ) xấn tới tấn công của bị hại khi được can ngăn. Trong đó, trước khi bị hại

bị đâm thì bị hại cũng là người có hành vi dùng vũ lực đối với bị cáo (dùng

chân đạp xe máy của bị hại, dùng gậy tre đánh vào người bị hại). Mặc dù, bị

cáo cho rằng bị cáo không có mục đích tước đoạt mạng sống của bị hại nhưng

xét thấy việc dùng dao nhọn là hung khí nguy hiểm dâm nhiều nhát vào các

vùng trọng yếu trên cơ thể người bị hại có thể gây ra cái chết cho bị hại. Bị cáo

nhận thức được việc này nhưng vẫn thực hiện. Vì vậy, Hội đồng xét xử đủ căn

cứ để xác định bị cáo Lê Sơn B phạm tội “Giết người” theo quy định tại khoản

2 Điều 123 Bộ luật Hình sự mà không thuộc trường hợp phạm tội “có tính chất

côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Việc Cáo

trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy tố đối với bị cáo

phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản Điều 123 Bộ luật Hình

sự là chưa phù hợp.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi và hậu quả hành vi mà bị cáo gây ra là

đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng con

người là khách thể được Bộ luật hình sự ưu tiên bảo vệ. Hành vi của bị cáo còn

gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương nên cần xem

xét xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm để phát huy tác dụng răn đe, giáo dục và

phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành

khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi thực hiện

hành vi phạm tội đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục một phần hậu quả

cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Đây là 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm

theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa

đổi, bổ sung năm 2017, được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần

hình phạt cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị hại là Nguyễn Thanh T1 yêu cầu bị

cáo bồi thường tổng số tiền 71.000.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo B, bà T là vợ bị cáo và bị hại T1 tự nguyện thỏa

thuận được với nhau về việc bị cáo và bà T có trách nhiệm bồi thường tiếp cho

bị hại số tiền 71.000.000 đồng, phương án bồi thường số tiền trên được thực

hiện vào hai đợt: đợt 1 ngày 26/7/2024 bồi thường 35.500.000 đồng, đợt 2

ngày 26/01/2025 bồi thường 35.500.000 đồng. Xét thấy, sự thỏa thuận của bị

cáo, bà T và bị hại là sự tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật nên cần

ghi nhận.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ

luật Tố tụng hình sự:

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Sơn B phải chịu 200.000đồng;

bị cáo B và bà T phải liên đới chịu 3.550.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm có

giá ngạch.

[9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh và

mức hình phạt là có căn cứ nên được chấp nhận, về khung hình phạt không

được chấp nhận.

[10] Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa được Hội

đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Sơn B phạm tội “Giết người”

2. Về áp dụng điều luật và hình phạt:

Áp dụng khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung

năm 2017; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự

năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Sơn B 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày

30/01/2023.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các Điều 584, Điều 585, Điều

586, Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015;

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Lê Sơn B, người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan bà Trần Thị T (vợ bị cáo) và bị hại Nguyễn Thanh T1 về việc:

Bị cáo Lê Sơn B và bà Trần Thị T có trách nhiệm tiếp tục bồi thường

cho bị hại Nguyễn Thanh T1 số tiền 71.000.000 (bảy mươi mốt triệu) đồng.

Phương án bồi thường được thực hiện như sau: ngày 26/7/2024 bị cáo B và bà

T phải bồi thường cho ông T1 số tiền 35.500.000 (ba mươi lăm triệu năm trăm

nghìn) đồng; ngày 26/01/2025 bị cáo B và bà T phải bồi thường cho ông T1

phải bồi thường nốt số tiền 35.500.000 (ba mươi lăm triệu năm trăm nghìn)

đồng còn lại.