Hãy lái xe bằng cả sinh mệnh

Hãy lái xe bằng cả sinh mệnh

Luật sư quận Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa cho bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố trong các vụ án hình sự

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án

được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh Đ lái xe thuê cho bà Huỳnh Thị U. Vào khoảng 17 giờ 40 phút

ngày 22/4/2022, Đ điều khiển xe ôtô tải biển số 84H-008.72 chở theo ông Nguyễn Bá

T lưu thông trên tuyến tránh Quốc lộ 60 hướng từ Cầu Cổ Chiên đi cầu Mỏ Cày 2. Khi

đến khu vực thuộc ấp T, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre, đoạn có biển báo hiệu giao2

thông đường bộ “Giao nhau với đường không ưu tiên” và biển báo “Cấm vượt” nhưng

Đ điều khiển cho xe lấn sang phần đường bên trái để vượt xe ôtô 16 chỗ đang chạy

cùng chiều phía trước dẫn đến va đụng vào xe môtô biển số 84K4-5923 do anh Trương

Văn P điều khiển lưu thông theo chiều ngược lại. Hậu quả làm anh P chết tại hiện

trường, hai xe bị hư hỏng.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

– Thu giữ tại hiện trường: 01 (một) xe ôtô tải biển số 84H-008.72, nhãn hiệu:

ISUZU, số loại: FRR90NE4, màu sơn: trắng, số khung: RLEFRR90NLV000407, số

máy: 4HK10EC766; 01 (một) xe môtô biển số 84K4-5923, nhãn hiệu: SIRIUS, loại

xe: nữ, màu sơn: đen – bạc, số khung: C6309Y214669, số máy: 5C63214672.

– Bà Huỳnh Thị U giao nộp: 01 (một) thiết bị giám sát hành trình hiệu “viview”

XT3.5 và GPS màu đen.

– Nguyễn Minh Đ giao nộp: Giấy phép lái xe hạng C số 860119001309 mang tên

Nguyễn Minh Đ, nơi cấp: Sở Giao thông Vận tải tỉnh L, ngày cấp: 17/9/2019.

Kết quả khám nghiệm hiện trường thể hiện: Hiện trường là đoạn đường thẳng trên

tuyến tránh Quốc lộ 60 thuộc ấp T, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre nằm trong khu vực

đường bộ giao nhau, mặt đường rộng 9,10 mét được điều chỉnh bởi biển báo hiệu giao

thông đường bộ W207a, ở giữa mặt đường có vạch kẻ sơn đường màu vàng đứt quãng

(tim đường) chia mặt đường thành hai phần đường xe chạy riêng biệt. Chọn vạch kẻ

tim đường làm chuẩn để đo vẽ (chọn hướng khám nghiệm từ cầu Cổ Chiên đi cầu Mỏ

Cày 2), ghi nhận các dấu vết chính như sau:

– Vết phanh 1 (ký hiệu số 1): Vết phanh đôi, dài 15,60 mét, rộng 0,48 mét, đầu

vết nằm trên phần đường bên trái theo hướng khám nghiệm, điểm gần nhất của đầu vết

cách tim đường 0,27 mét, điểm gần nhất của cuối vết nằm trên phần đường bên phải

theo hướng khám nghiệm, cách tim đường 0,10 mét.

– Vết phanh 2 (ký hiệu số 2): Vết phanh đơn, nằm trên phần đường bên trái theo

hướng khám nghiệm, dài 6,45 mét, rộng 0,20 mét, đầu vết cách đầu vết phanh 1 là 15

mét, điểm gần nhất của đầu vết cách tim đường 1,5 mét, điểm gần nhất của cuối vết

cách tim đường 1,23 mét.

– Vết phanh 3 (ký hiệu số 3): Vết phanh đơn, nằm trên phần đường bên phải theo

hướng khám nghiệm, dài 1,9 mét, rộng 0,18 mét, đầu vết cách đầu vết phanh 2 là 1,9

mét, điểm gần nhất của đầu vết cách tim đường 0,20 mét, điểm gần nhất của cuối vết

cách tim đường 0,21 mét.

– Vị trí vùng vết cày (ký hiệu số 4): Vùng vết cày cong, đứt quãng, nằm trên phần

đường bên trái theo hướng khám nghiệm dài 21,80 mét, rộng 0,35 mét đầu vết cách

đầu vết phanh 3 là 1,80 mét, cách đầu vết phanh 1 là 15,20 mét, điểm gần nhất của đầu

vết cách tim đường 1,50 mét, cuối vết trùng với đầu gát chân trước bên phải xe môtô3

biển số 84K4-5923 cách tim đường 4,35 mét.

– Vị trí nạn nhân nằm trên phần đường bên trái theo hướng khám nghiệm, đầu nạn

nhân quay ra tim đường, đầu nạn nhân cách đầu vùng vết cày 14,90 mét, cách tim

đường 2,10 mét, bàn chân phải nạn nhân cách tim đường 3,42 mét.

– Vị trí xe môtô biển số 84K4-5923 (ký hiệu số 6): Nằm ngã nghiêng về bên phải

sát mép đường bên trái theo hướng khám nghiệm, đuôi xe quay về hướng lề đường bên

trái, tâm trục bánh sau cách đầu vùng vết cày 22 mét, cách tim đường là 4,83 mét.

– Vị trí xe ôtô tải 84H-008.72 (ký hiệu số 7): Nằm trên phần đường bên trái theo

hướng khám nghiệm, đầu xe quay về hướng cầu Mỏ Cày 2, tâm trục bánh sau bên phải

cách đầu vết phanh 1 là 47,40 mét, tâm trục bánh sau bên trái cách tâm trục bánh sau

xe môtô biển số 84K4-5923 là 10,40 mét, tâm trục bánh sau bên phải cách tim đường

1,9 mét, tâm trục bánh trước bên phải cách tim đường 2,4 mét.

– Biển báo hiệu giao thông đường bộ giao nhau với đường không ưu tiên (W207a)

đứng trên lề đường thuộc phần đường bên phải theo hướng khám nghiệm cách đầu vết

phanh 1 là 29,75 mét, cách đầu vùng vết cày 45,08 mét, hướng về cầu Mỏ Cày 2.

– Lấy cọc H5/39: Km39+500 tuyến tránh Quốc lộ 60 ấp T, xã A, huyện M, tỉnh

Bến Tre đứng bên lề đường thuộc phần đường bên trái theo hướng khám nghiệm là

mốc cố định hiện trường, cách đầu vết phanh 1 là 11,30 mét, hướng về cầu Mỏ Cày 2.

– Trước hiện trường về hướng cầu Cổ Chiên, tại vị trí cọc H9/40 (Km 40+900)

tuyến tránh Quốc lộ 60 ấp T, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre, có biển báo hiệu giao thông

đường bộ P “Cấm vượt” ở lề đường phải hướng tỉnh V đi tỉnh Bến Tre. Sau hiện

trường về hướng cầu Mỏ Cày 2, tại vị trí cọc H3/39 (Km39+300) tuyến tránh Quốc lộ

60 ấp T, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre, có biển báo hiệu giao thông đường bộ DP133

“Hết cấm vượt” ở lề đường bên phải hướng tỉnh V đi tỉnh Bến Tre.

Kết quả khám nghiệm xe môtô biển số 84K4-5923 ghi nhận: Đầu xe bị bể hư

hỏng hoàn toàn; bánh xe trước bị gãy rời khỏi xe; đèn chiếu sáng, đèn chuyển hướng,

mặt nạ bể hư hỏng hoàn toàn, hệ thống đèn chuyển hướng phía trước hư hỏng hoàn

toàn; hệ thống lái bị đẩy lệch từ trước về sau, nan hoa bánh xe trước bị gãy, niền xe

bánh xe trước bị biến dạng có nhiều vết ma sát; đùm xe trước bị bể; đầu phía dưới

giảm sốc bên phải có vết mài mòn kim loại (03 x 02)cm; bên phải má đùm trước có vết

mài mòn kim loại (12 x 02)cm; cạnh bên phải bàn đạp phanh sau có vết mài mòn kim

loại (03 x 0,5)cm; đầu gác chân trước bên phải có vết mài mòn kim loại (01 x 01)cm;

đầu gát chân sau bên phải có vết mài mòn kim loại (03 x 01)cm; ốp bảo vệ bộ phận

giảm phanh có vết mài mòn kim loại (34 x 07)cm; nan hoa bánh xe sau bị gãy, cong

biến dạng; niền xe sau cong biến dạng; đầu máy xe bị bể; đuôi xe không phát hiện dấu4

vết.

Kết quả khám nghiệm xe ôtô tải biển số 84H4-008.72 ghi nhận: Tại thời điểm

khám nghiệm, đèn chuyển hướng phía trước bên trái không hoạt động; bên trái đầu xe

móp thụng từ trước ra sau, dính tạp chất màu đỏ (nghi máu), kích thước (20 x 10)cm,

điểm gần nhất cách thành xe bên trái 34cm, điểm thấp nhất cách nền 101cm; hệ thống

đèn phía trước bên trái bị bể; bên trái đầu xe có vết bể, móp thụng từ trước về sau có

dính tóc, kích thước (94 x 57)cm, điểm thấp nhất cách nền 69cm; bên trái cản xe trước

có vết trầy xước móp thụng từ trước ra sau, từ ngoài vào trong, dính tạp chất màu

xanh, đỏ, đen, kích thước (46 x 25)cm, điểm thấp nhất cách nền 49cm; đầu phía dưới

cửa xe bên trái có vết móp thụng từ trước về sau kích thước (60 x 47)cm, điểm thấp

nhất cách nền 71cm; kính cửa xe bên trái bị bể; mặt lăn bánh xe trước bên trái có vết

ma sát rộng 19cm; mặt lăn bánh xe trước bên phải có vết ma sát rộng 19cm; mặt lăn

bánh xe sau bên phải có vết ma sát rộng 50cm; đầu xe bên phải, thành xe bên phải và

đuôi xe không phát hiện dấu vết.

Tại Phiếu kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong máu ngày 23/4/2022 của Phòng

xét nghiệm y khoa Thái An xác định: Nồng độ cồn trong máu của anh Trương Văn P

là 125mg/100ml máu (trị số bình thường <50mg%).

Tại Phiếu xét nghiệm ngày 22/4/2022 của Bệnh viện Đa khoa khu vực Cù Lao

Minh xác định: Nồng độ cồn trong máu của Nguyễn Minh Đ là 00mg/100ml máu; kết

quả xét nghiệm ma túy: âm tính.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh

tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại làm

trong thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình

sự. Tại phiên tòa phúc thẩm; bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không có ý

kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ của vụ án, có cơ

sở xác định. Vào khoảng 17 giờ 40 phút ngày 22/4/2022, Nguyễn Minh Đ điều khiển

xe ôtô tải biển số 84H-008.72 lưu thông trên tuyến tránh Quốc lộ 60 hướng từ cầu Cổ7

Chiên đi cầu Mỏ Cày 2. Khi đến khu vực thuộc ấp T, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre,

Đức đã điều khiển xe vượt lấn sang phần đường bên trái dẫn đến va đụng vào xe môtô

biển số 84K4-5923 do anh Trương Văn P điều khiển lưu thông theo chiều ngược lại.

Hậu quả làm anh Trương Văn P chết tại hiện trường. Vị trí va chạm đầu tiên giữa hai

phương tiện chiếu xuống mặt đường tại trước đầu vết cày ký hiệu số 4, thuộc phần

đường bên phải tuyến tránh Quốc lộ 60 theo hướng từ cầu Mỏ Cày 2 đi cầu Cổ Chiên.

Với ý thức, hành vi, lỗi và hậu quả đã gây ra, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và

tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Đ phạm “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là có cơ sở,

đúng quy định pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của đại diện hợp pháp cho người bị hại, thấy rằng: Tòa án cấp

sơ thẩm khi áp dụng hình phạt tù đã xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Về tình

tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt

hại cho gia đình bị hại; bị cáo có cha ruột ông Nguyễn Văn Tăng là bộ đội phục viên,

năm 2015 được Tỉnh ủy tỉnh L tặng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng và hiện tại bị cáo là

lao động chính trong gia đình, tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện hợp pháp của bị hại

đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2

Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo đầy đủ các tính

tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng

án treo. Xét bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có

nơi cư trú rõ ràng nên đủ điều kiện hưởng án treo theo quy định Nghị quyết số:

02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết số: 01/2022/NQ-HĐTP ngày

15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án cấp sơ thẩm áp

dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo không vi phạm quy định, tại phiên tòa

phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết tăng nặng mới nên được giữ nguyên. Do vậy,

không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại giữ nguyên bản án

sơ thẩm.

[4] Quan điểm của Kiểm sát viên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử;

[5] Về án phí: Bà Mai Thị T không phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng

hình sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp của

người bị hại, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều

65 của Bộ Luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Đ 01 (một) năm tù nhưng cho

hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là

ngày 10/5/2023. Giao bị cáo Nguyễn Minh Đ cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện V,

tỉnh L phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ

theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết

định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành

hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại

Điều 65 Bộ luật hình sự. Việc giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay

đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành

án hình sự năm 2019.

2. Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 23 của Nghị

quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Án phí hình sự phúc thẩm bà Mai Thị T không phải chịu.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có

hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.