Mâu thuẫn trong đám cưới khiến 1 người tử vong

Mâu thuẫn trong đám cưới khiến 1 người tử vong

Luật sư quận Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa cho bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố trong các vụ án hình sự

Nội dung vụ án :

Khoảng 19 giờ ngày 09/4/2021, Tô Văn T đến nhà ông Trương Văn S1 ở ấp

T, xã T, huyện B để dự tiệc cưới. Lúc này, tại nhà ông S1 còn một bàn tiệc, T vào

dự tiệc và ngồi cùng bàn với nhiều người trong đó có anh Hồ Văn B. Nhậu được

một lúc T đi vệ sinh, khi trở lại bàn tiệc thì thấy anh B đang ngồi ở vị trí của T

đang ngồi. T đứng uống bia và đợi anh B đi chỗ khác nhưng anh B liếc nhìn T,

thái độ như muốn gây sự nên T đi ra ngoài dùng điện thoại gọi cho em ruột của T

là Tô Hữu C nói “Anh có người kiếm chuyện, tí nữa anh gọi mày lên với anh

nghen, nhưng không có gì, lỡ có gì anh mới gọi, có gì mày đem đồ lên phòng thân,

anh không có đem gì hết”, C hỏi lại “Có chuyện gì vậy, anh đang ở đâu?”, T trả lời

“Thì anh dặn hờ vậy, có gì anh điện”. Đến khoảng 19 giờ 30 phút, T tiếp tục gọi

cho C, nhưng cuộc gọi tự ngắt kết nối. Nghĩ Tấn có chuyện, C liền lấy 01 con dao

bấm bỏ vào túi quần, dắt xe mô tô biển số 95E1-550.53 ra cửa nhà sau, lấy một số

cục gạch, đá và 01 gậy ba khúc bỏ vào bao (loại bao thức ăn tôm) rồi bỏ vào cốp

xe. Sau đó, C kêu cháu ruột là Đặng Minh T3 đang ngồi giặt đồ ở sau nhà đi với C

đến gặp T. C điều khiển xe chở T3 ngồi sau, trên đường đi, C gọi điện thoại cho T

hỏi ở đâu, T nói đang ở đám cưới và chỉ địa điểm cho C biết. C và T3 đến gặp T

đang đứng ở đầu đường vào đám cưới. C dừng xe, đi đến nói chuyện với T. Lúc

này, T3 vẫn còn ngồi trên xe, cách chỗ T và C đứng khoảng 02 mét, không nghe,

không thấy nội dung nói chuyện giữa C và T. Cảnh hỏi “Có chuyện gì vậy?”, T trả

lời “Không có gì, tại thằng này hồi xưa đánh anh, nay đi đám cưới gặp nó, nó kiếm

chuyện với anh”. C hỏi người đó tên gì thì T nói tên là “Beo”. Cảnh hỏi tiếp “Giờ

anh tính sao?”, T trả lời “Giờ chưa có gì, tao lấy đồ phòng thân thôi, nếu nó kiếm

chuyện với tao là tao quất nó”. Nói xong, C lấy con dao từ trong túi quần ra đưa

cho T và hướng dẫn T cách sử dụng. T lấy dao bỏ vào túi quần bên phải, đi trở vào

đám cưới. Sau khi T đi được một lúc, do không yên tâm nên C và T3 đi vào đám

cưới xem sao. T3 đi trước, C mở cốp xe lấy bao đựng gạch đá và gậy ba khúc ra

cầm đi sau (T3 không thấy). Khi vào đến bàn tiệc, T cự cãi với anh B, anh B lấy

ghế nhựa đánh một cái trúng vào đuôi mày phải của T gây xước da chảy máu thì

được mọi người can ngăn. Liền lúc đó, T lấy dao trong túi quần ra cầm trên tay

phải, bật lưỡi dao ra xông về phía anh B, đâm 01 cái từ trên xuống trúng vào vùng

cổ bên phải của anh B. Sau đó, rút dao ra, đi ra cổng đám cưới thì gặp C và T3 vừa

tới. C thấy T bị chảy máu vùng trán nên hỏi “Thằng nào đánh anh”, T chỉ tay về

hướng anh B đang bị chảy máu nói “Nó đó”, rồi kêu C và T3 chạy. T3 lấy ghế

nhựa ném vào đám cưới nhưng không trúng ai, rồi cùng C và T bỏ chạy ra đầu

hẻm. C điều khiển xe mô tô chở T3 và T về nhà. Anh Hồ Văn B được đưa đi cấp

cứu tại bệnh viện huyện B nhưng đã tử vong ngoại viện. Khi về đến nhà T tắm

rửa, lấy dao cất giấu, sau đó được người nhà báo tin anh B đã chết nên T mang dao

đi đến Công an xã T, huyện B đầu thú.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được

thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra

Công an tỉnh B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, Kiểm sát viên

trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục

quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa; bị cáo,

người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng

không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến

hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; tại phiên tòa người làm chứng vắng mặt

nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra làm rõ tình tiết của vụ án, việc vắng

mặt người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử

tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật

Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai

trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng

được thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập,

có cơ sở xác định: vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 09/4/2021, xuất phát từ mâu

thuẫn nhỏ nhặt trong lúc dự tiệc cưới tại nhà ông Trương Văn S1 thuộc ấp T, xã T,

huyện B, tỉnh Bến Tre giữa Tô Văn T với ông Hồ Văn B, T đã gọi điện thoại cho

ông Tô Hữu C kêu C mang hung khí đến cho T. Sau khi C mang dao đến đưa cho

T thì T quay trở lại đám cưới tiếp tục cự cãi với ông B. Trong lúc cự cãi, T bị ông

B dùng ghế đánh 01 cái làm xước da ở đuôi mày phải, được mọi người can ngăn,

T rút dao từ túi quần ra xông đến đâm 01 cái vào vùng cổ bên phải của ông Hồ

Văn B gây đứt tĩnh mạch cảnh trong bên phải, động – tĩnh mạch dưới đòn phải,

thủng phổi phải gây sốc mất máu cấp dẫn đến tử vong.

[3] Về tội danh: bị cáo là người thành niên, không hoàn toàn bị mất khả năng

nhận thức và khả năng điều khiển hành vi nên phải chịu trách nhiệm hình sự về

hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra; chỉ vì nguyên cớ nhỏ nhen trong lúc dự tiệc

cưới nhưng bị cáo đã dùng dao bấm đâm bị hại tử vong; bị cáo phạm tội với lỗi cố

ý trực tiếp; hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến tính mạng của bị hại,

gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Với ý thức, hành vi, nguyên nhân và hậu

quả do bị cáo gây ra, thấy rằng Bản cáo trạng số: 39/CT-VKSBT-P1 ngày

12/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre truy tố bị cáo Tô Văn T về

“Tội giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản

1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[4] Về nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội; thủ đoạn, động cơ,

mục đích phạm tội; tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra: giữa bị

cáo Tô Văn T với bị hại Hồ Văn B có mâu thuẫn nhỏ nhen trước đó trong lúc làm

thuê trên tàu cá của bà Tô Thị D2; nên khi gặp nhau tại đám cưới nhà của ông

Trương Văn S1, trong lúc bị cáo rời khỏi bàn tiệc thì bị hại ngồi vào ghế của bị

cáo, khi bị cáo trở lại bàn tiệc không có ghế ngồi nên giữa bị cáo với bị hại có lời

nói qua lại và cự cãi nhau. Bị cáo sợ bị bị hại đánh nên gọi điện thoại cho em ruột

là Tô Hữu C đem dao lại đưa cho bị cáo để khi bị đánh thì lấy ra sử dụng chống

trả, bị cáo lấy dao bỏ vào túi quần tiếp tục vào dự đám cưới, sau đó bị cáo với bị

hại tiếp tục cự cãi, bị hại dùng ghế nhựa đánh vào vùng mặt của bị cáo làm bị cáo

té ngã xuống đất, làm xước da ở đuôi mày phải, được mọi người can ngăn, bị cáo

đã lấy dao loại dao bấm bằng kim loại sắc, nhọn là hung khí nguy hiểm xông đến

đâm bị hại 01 cái gây ra vết thương vùng cổ phải, gây đứt tĩnh mạch cảnh trong

phải, đứt động mạch – tĩnh mạch dưới đòn phải, thấu vào khoang ngực phải và

xuyên qua thùy trên phổi phải, gây sung xuất huyết phổi phải, dẫn đến bị hại tử

vong do suy tuần hoàn, suy hô hấp cấp, hậu quả của vết thương vùng cổ phải. Bị

cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện bản tính côn đồ, xâm

phạm tính mạng của con người một cách trái pháp luật; hành vi phạm tội của bị

cáo đã gây đau thương mất mác cho gia đình bị hại không gì bù đắp được, gây mất

an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

[5] Về nhân thân; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; lượng

hình: bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều

tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật

Hình sự; sau khi gây ra cái chết cho bị hại, bị cáo đã tác động gia đình liên đới

cùng với Tô Hữu C thỏa thuận bồi thường xong toàn bộ thiệt hại theo yêu cầu của

phía bị hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b

khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tại thời điểm phạm tội bị cáo là người có

bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên được hưởng tình

tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm q khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình

sự; bị cáo sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã đến cơ quan Công an đầu thú, gia

đình bị cáo có ông, bà ngoại là người có công với đất nước, có cha, mẹ là người

cao tuổi, người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của

Bộ luật Hình sự; do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo

khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên cần áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình

sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Xét thấy bị cáo phạm tội có khung

hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình, thuộc loại tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng bởi tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt

lớn, phạm tội thể hiện bản tính côn đồ, coi thường pháp luật và mạng sống con

người. Tuy nhiên; thấy rằng bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, tại

thời điểm phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển

hành vi, người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị

cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được nêu ở phần trên. Qua

xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và hậu quả

xảy ra, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo;

xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo cần áp dụng loại hình phạt theo quy định tại

Điều 38 của Bộ luật Hình sự, để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời

gian nhất định mới đủ sức giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Đối với bị

cáo tại thời điểm gây án bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bị

áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh từ ngày 02/12/2021 đến ngày 31/3/2023; vì

vậy áp dụng Điều 49 của Bộ luật Hình sự, thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ

vào thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Các bên đã thỏa thuận bồi thường xong và không

có yêu cầu gì thêm, nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số sêri 35742087655713

của Tô Văn T dùng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước;

Đối với vật chứng còn lại của vụ án theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày

28/6/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B với Cục Thi hành án dân

sự tỉnh Bến Tre, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về các vấn đề khác:

[8.1] Quan điểm của Kiểm sát viên về tội danh và hình phạt đối với bị cáo,

trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng của vụ án là phù hợp với quan điểm của

Hội đồng xét xử.

[8.2] Người bào chữa đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là có cơ

sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8.3] Đối với hành vi của Tô Hữu C đã được Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre

đưa ra xét xử theo Bản án số: 06/2022/HS-ST ngày 01/3/2022, tuyên phạt Tô Hữu

C 8 năm tù về “Tội giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình

sự. Bản án đã có hiệu lực pháp luật, Tô Hữu C đang chấp hành án.

[8.4] Đối với hành vi của Đặng Minh T3, mặc dù T3 có đi theo C, nhưng

trước khi đi C không nói cho T3 biết đến gặp Tô Văn T để làm gì, bản thân T3

cũng không thấy C mang theo dao đưa cho T. Khi gặp T, T3 hoàn toàn không biết

nội dung trao đổi giữa T và C. Khi T3 và C đi vào đám cưới thì T đã đâm ông Hồ

Văn B, việc T3 dùng ghế chọi ngược vào đám cưới chỉ là hành động bộc phát,

không liên quan đến hành vi phạm tội của T. Do đó, T3 không đồng phạm với T

và C về tội giết người.

[9] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Tô Văn T phạm “Tội giết người”;

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 49; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Tô Văn T 09 (chín) năm tù;

Thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: không có.

3. Về xử lý vật chứng: căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp

dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

* Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu

NOKIA màu đen, số serial: 35742087655713, đã qua sử dụng, điện thoại đã tắt

nguồn.